Tài liệu Sài Gòn nhân vật
Sương Nguyệt Anh (1864 - 1921)
Tên thật là Nguyễn Xuân Khuê, con gái của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.
Bà học giỏi, thường làm thơ bằng chữ Hán hay quốc ngữ, bày tỏ tâm sự trước cảnh nước mất nhà tan, nhân dân lầm than đau khổ.
Năm 1918 bà làm chủ bút tuần báo Nữ Giới Chung (xuất bản ở Sài Gòn), trở thành người phụ nữ Việt Nam đầu tiên là chủ bút tờ báo của giới phụ nữ nước ta.
Nguyễn Thái Bình
Sinh 14-1-1948 tại Cần Giuộc, Long An. Mười giờ sáng ngày 2-7-1972 khi chiếc Boeing 747 mang số hiệu 841 của hãng hàng không Liên Mỹ PAN AM vừa đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất, Nguyễn Thái Bình đã bị William H. Mills, nhân viên cơ quan tình báo Mỹ CIA, cùng đi trên máy bay bắn 4 phát đạn vào ngực rồi ném xác anh xuống đường băng.
Hai tháng trước đó, Nguyễn Thái Bình tốt nghiệp kỹ sư công nghiệp thực phẩm và ngư nghiệp với hạng danh dự tại Viện đại học Washington. Được cấp học bổng Leadership đi du học tại Mỹ từ năm 1968, anh luôn nghĩ về đất nước mình, dân tộc mình. Anh tham gia các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam, viết nhiều bài báo (bằng tiếng Việt và tiếng Anh) tố cáo những tội ác mà quân viễn chinh Mỹ gây ra cho đồng bào mình, làm thơ, vẽ tranh, sáng tác nhạc bày tỏ khát vọng độc lập và hòa bình của nhân dân Việt Nam. Đặc biệt trong lễ phát bằng tốt nghiệp đại học (5-1972) anh công bố tài liệu Nợ máu (Blood Debt), lên án Chính phủ Mỹ đã gây ra bao đau thương, chết chóc và tàn phá trên quê hương anh. Trong thư ngỏ gửi Tổng thống Mỹ Richard M. Nixon đề ngày 1-7-1972 tức một ngày trước khi hy sinh, Nguyễn Thái Bình viết: "[Tôi] trở về Việt Nam để đứng trong hàng ngũ nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Không một vũ khí nào, không một đe dọa nào có thể khiến tôi chùn bước. Nếu tôi có bị giết thì cả triệu người Việt Nam sẽ thay thế tôi chiến đấu cho tới ngày nào chúng tôi chấm dứt được cuộc chiến vô luân, vô nhân đạo này".
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu Sài Gòn nhân vật
Sài Gòn nhân vật Giới thiệu sơ lược một số nhân vật của Sài Gòn - Gia Định trong 300 năm qua. Có người sinh trưởng ở Sài Gòn - Gia Định, có người quê quán ở nơi khác nhưng cuộc đời và hoạt động lại gắn bó với quá trình phát triển của thành phố. Tên nhân vật xếp theo thứ tự A, B, C... Sương Nguyệt Anh (1864 - 1921) Tên thật là Nguyễn Xuân Khuê, con gái của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Bà học giỏi, thường làm thơ bằng chữ Hán hay quốc ngữ, bày tỏ tâm sự trước cảnh nước mất nhà tan, nhân dân lầm than đau khổ. Năm 1918 bà làm chủ bút tuần báo Nữ Giới Chung (xuất bản ở Sài Gòn), trở thành người phụ nữ Việt Nam đầu tiên là chủ bút tờ báo của giới phụ nữ nước ta. Nguyễn Thái Bình Sinh 14-1-1948 tại Cần Giuộc, Long An. Mười giờ sáng ngày 2-7-1972 khi chiếc Boeing 747 mang số hiệu 841 của hãng hàng không Liên Mỹ PAN AM vừa đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất, Nguyễn Thái Bình đã bị William H. Mills, nhân viên cơ quan tình báo Mỹ CIA, cùng đi trên máy bay bắn 4 phát đạn vào ngực rồi ném xác anh xuống đường băng. Hai tháng trước đó, Nguyễn Thái Bình tốt nghiệp kỹ sư công nghiệp thực phẩm và ngư nghiệp với hạng danh dự tại Viện đại học Washington. Được cấp học bổng Leadership đi du học tại Mỹ từ năm 1968, anh luôn nghĩ về đất nước mình, dân tộc mình. Anh tham gia các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam, viết nhiều bài báo (bằng tiếng Việt và tiếng Anh) tố cáo những tội ác mà quân viễn chinh Mỹ gây ra cho đồng bào mình, làm thơ, vẽ tranh, sáng tác nhạc bày tỏ khát vọng độc lập và hòa bình của nhân dân Việt Nam. Đặc biệt trong lễ phát bằng tốt nghiệp đại học (5-1972) anh công bố tài liệu Nợ máu (Blood Debt), lên án Chính phủ Mỹ đã gây ra bao đau thương, chết chóc và tàn phá trên quê hương anh. Trong thư ngỏ gửi Tổng thống Mỹ Richard M. Nixon đề ngày 1-7-1972 tức một ngày trước khi hy sinh, Nguyễn Thái Bình viết: "[Tôi] trở về Việt Nam để đứng trong hàng ngũ nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc... Không một vũ khí nào, không một đe dọa nào có thể khiến tôi chùn bước... Nếu tôi có bị giết thì cả triệu người Việt Nam sẽ thay thế tôi chiến đấu cho tới ngày nào chúng tôi chấm dứt được cuộc chiến vô luân, vô nhân đạo này". Trương Tấn Bửu (1752 - 1827) Danh tướng đời Gia Long, quê làng Hưng Lễ, Bảo Phước, tỉnh Vĩnh Long (nay là Giồng Trôm, Bến Tre). Theo giúp Nguyễn Phúc Ánh Gia Long, làm Trung quân kiêm Tả quân Phó tướng, quyền lãnh chức Tổng trấn Bắc Thành. Đến năm Nhâm Thân 1812, thực thụ Phó Tổng trấn Gia Định. Ông mất ngày 2-8-1827 tại Phú Nhuận. Thành phố Hồ Chí Minh còn miếu mộ ông. Nguyễn Hữu Cảnh (tức Nguyễn Hữu Kính, 1650 - 1700) Quê gốc ở Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1692 ông làm Tổng binh, lập trấn Thuận Thành (Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay), sau làm Trấn thủ dinh Bình Khang (Khánh Hòa ngày nay). Năm 1698, ông được cử làm Thống suất vào Nam Kinh lược thành lập các đơn vị hành chính, xây dựng bộ máy chính quyền các phủ, dinh, huyện, chiêu tập dân khai khẩn đất hoang, lập làng, xóm. Ông được phong tước Lễ Thành Hầu và Vĩnh An Hầu. Sau khi qua đời, ông được nhiều địa phương ở Nam Bộ thờ làm Thành hoàng. Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) Quê làng Tân Khánh, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Đỗ tú tài trường thi Gia Định lúc 21 tuổi. Ra Huế học thêm để chờ khoa thi Kỷ Dậu 1849. Bỗng được tin mẹ mất, ông trở về chịu tang, dọc đường bị bệnh rồi mù cả đôi mắt. Ông về Gia Định dạy học. Pháp chiếm Gia Định ông lui về Ba Tri, tỉnh Bến Tre, tiếp tục dạy học và làm thuốc. Liên hệ mật thiết với nghĩa binh Trương Định. Tích cực dùng văn chương khơi dậy lòng yêu nước của sĩ phu và nhân dân. Nguyễn Văn Cừ Nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, sinh ngày 9-7-1912. Quê Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh. Năm 1930, ông làm Bí thư đầu tiên đặc khu Hòn Gai - Uông Bí, năm 1937 dự Hội nghị Trung ương tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định và được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Năm 1938, ông được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Mùa thu năm 1939, ông vào Sài Gòn cùng các ông Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu... mở Hội nghị Trung ương lần thứ 6. Tháng 6-1940, ông bị bắt tại đường Nguyễn Tấn Nghiệm, Sài Gòn. Ngày 28-8-1941, ông bị thực dân Pháp xử bắn tại Bà Điểm - Hóc Môn. Lê Văn Duyệt (1763 - 1832) Quê Quảng Ngãi. Từ 1780 theo Nguyễn Ánh chống Tây Sơn. Tổng trấn Gia Định năm 1813, năm 1816 triều đình triệu về kinh, năm 1820 trở lại làm Tổng trấn Gia Định, năm 1832 mất tại chức. Là người có công lớn trong việc khai hoang lập ấp ở đất Gia Định. Tại xã Bình Hòa nay là quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh còn phần mộ ông - Lăng đức Tả quân, Lăng Thượng Công hay Lăng Ông Bà Chiểu. Nguyễn Cửu Đàm Giữ chức Điều khiển. Năm 1772, ông cầm quân đánh đuổi đạo quân Xiêm (do chính Vua Xiêm Trịnh Quốc Anh chỉ huy) ra khỏi lãnh thổ Cao Miên, giải phóng các thành Nam Vang, La Bích. Về lại Gia Định, ông cho xây lũy Bán Bích dài 15 dặm để bảo vệ Sài Gòn. Lê Quang Định (1759 - 1813) Hiệu Cấn Trai, quê huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Học với Võ Trường Toản, kết bạn với Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, được người đương thời xưng tặng là Gia Định Tam gia, lập Thi xã Bình Dương, được sĩ phu đường thời khen ngợi. Năm 1788, Nguyễn Ánh chiếm Gia Định, mở khoa thi, ông và Trịnh Hoài Đức trúng tuyển, được cử làm Hàn Lâm viện chế cáo, rồi thăng đến Thượng thư bộ Binh, Thượng thư bộ Hộ. Biên soạn Hoàng Việt nhất thống địa dư chí. Ông mất năm Quý Dậu 1813. Nguyễn Huỳnh Đức (? - 1819) Danh tướng đời Gia Long, tên thật Huỳnh Tường Đức, vì lập công lớn nên được mang họ vua. Quê Thủ Thừa, Long An, làm Hiệp Tổng trấn Gia Định cùng với Trịnh Hoài Đức. Thích Quảng Đức (1897 - 1963) Tên thật là Lâm Văn Tuất còn có tên là Nguyễn Văn Khiết, quê Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Sinh năm 1897. Ngôi chùa cuối cùng ông trụ trì là chùa Quan Thế Âm (nay ở 90 đường Thích Quảng Đức, thành phố Hồ Chí Minh). 11-6-1963, trong cuộc tuần hành của trên 1.000 vị tăng sĩ và giới lãnh đạo Giáo hội Phật giáo miền Nam chống đế chế độc tài Ngô Đình Diệm, tại ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt (nay là góc đường Nguyễn Đình Chiểu - Cách Mạng Tháng Tám), ông tự thiêu đòi bình đẳng tôn giáo, chống đàn áp Phật giáo và đòi dân sinh dân chủ. Trịnh Hoài Đức (1765 - 1825) Vốn gốc người tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, đến đời ông nội là Trịnh Hội sang nước ta ngụ ở Phú Xuân (Huế), sau vào Biên Hòa lập nghiệp. Làm quan với chúa Nguyễn Ánh, làm đến Thượng thư bộ Lại kiêm bộ Hình và Phó tổng tài Quốc sử quán. Ông nổi tiếng văn chương một thời, cùng Lê Quang Định và Ngô Nhân Tịnh được người đời xưng tặng là Gia Định Tam gia trong nhóm Bình Dương Thi xã. Ông là tác giả tác phẩm Gia Định thành thông chí. Phạm Thế Hiển (1803 - 1861) Quê Đông Quan, Nam Định. Năm 1829, đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ. Khi giặc Pháp xâm lược miền Nam, ông cùng vào Nam với Tổng đốc quân vụ Nguyễn Tri Phương, chống giữ đại đồn Chí Hòa. Năm 1861, giặc Pháp tấn công ác liệt, đánh chiếm được Gia Định. Nguyễn Tri Phương lui binh về giữ Biên Hòa. Ông bị thương và mất sau đó. Hồ Hảo Hớn (1926 - 1967) Bí danh Hai Nghị, sinh tại Bến Tre. Năm 1962 là Bí thư Ban cán sự sinh viên học sinh Sài Gòn, 1965 là Phó Bí thư Khu đoàn Sài Gòn - Gia Định, rồi Bí thư Thành đoàn Thanh niên Lao động (1967). Tháng 10-1967, bị giặc bắt ở gần bót Bà Hòa và hy sinh tại đây. Phan Văn Hớn Quê ở Hóc Môn, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh). Đêm 8 rạng ngày 9-2-1885, ông cùng Nguyễn Văn Quá lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở vùng 18 Thôn Vườn Trầu, đánh chiếm quận Hóc Môn, giết tay sai đầu sỏ Đốc phủ Trần Tử Ca, sau đó kéo xuống đánh Sài Gòn, nhưng giữa đường bị quân Pháp chặn lại. Cuộc khởi nghĩa tan vỡ. Ông bị bắt và xử tử hình cùng với Nguyễn Văn Quá và một số người khác vào sáng ngày 30-3-1886. Nguyễn Văn Hưởng Ông Nguyễn Văn Hưởng (tức Nguyễn Thành Tâm), sinh ngày 24-12-1906, quê xã Mỹ Long Xuyên (nay là tỉnh An Giang), ông tốt nghiệp tiến sĩ y khoa tại Pháp năm 1932, ông tham gia hoạt động cách mạng năm 1945, vào Đảng CS ngày 3-7-1953. Năm 1945, Thành viên Hội đồng Cố vấn ủy ban Nhân dân Nam Bộ; tháng 9-1945, là Trưởng ban Y tế và bào chế của sở Y tế Nam Bộ. Tháng 3-1946, làm công tác vận động trí thức, tiếp tế thuốc cho khu 7 để săn sóc cán bộ hoạt động nội thành và ở khu về. Tháng 6-1947, là ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ; kiêm Giám đốc Sở Y tế quân dân Nam Bộ. Tháng 3-1955, là Trưởng đoàn đại biểu nhân dân Nam Bộ đi dự Hội nghị châu Á tại Niu Đê-li (Ấn Độ). Tháng 7-1955, là Giám đốc Bệnh viện 303. Tháng 1956, là Giám đốc Viện Vi trùng học. Năm 1958, được phân công kiêm Giám đốc Viện nghiên cứu Đông y. Năm 1959, là Giám đốc Viện nghiên cứu Đông y. Tháng 4-1969, được bổ nhiệm giữ chức vụ Bộ trưởng Y tế. Tháng 5-1970, ông được Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ định là Bí thư Đảng Đoàn Bộ Y tế. Năm 1956, ông là ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội. Năm 1960, ông là Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Năm 1964- 1971, ông là Phó Chủ tịch ủy ban Thường vụ Quốc hội, là Đại biểu Quốc hội khóa I, II, III. Ông là ủy viên Chủ tịch Đoàn UBT.Ư Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Do công lao và thành tích đối với cách mạng, ông đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Anh hùng Lao động, Huân chương Độc Lập hạng nhất và nhiều Huân chương, Huy chương cao quý khác. (Theo báo Tuổi Trẻ số 92/98 ngày 8/8/1998) Nguyễn Thị Minh Khai (1910 - 1941) Quê Vĩnh Yên, Nghệ An. Năm 1927, gia nhập Đảng Tân Việt. Năm 1930, sang Trung Quốc làm việc ở Văn Phòng Đông Dương Bộ Quốc tế Cộng sản. Năm 1936, tham gia Xứ ủy Nam Kỳ, làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. 30-7-1940 bà bị địch bắt. Ngày 28-8-1941, bà bị xử bắn cùng các đồng chí Võ Văn Tần, Nguyễn Văn Cừ tại Hóc Môn. Trần Tuấn Khải (1895 - 1983) Nhà thơ, bút hiệu Đông Minh Đông Á Thị, Á Nam, quê làng Quán Xán, huyện Mi Lộc, tỉnh Nam Định. Sau năm 1954, ông sống ở Sài Gòn và làm việc tại Thư viện quốc gia, Viện khảo cổ, chuyên viên Hán học tại Nhà văn hóa. Ông góp mặt trong các phong trào chống văn hóa đồi trụy, tranh đấu đòi hòa bình, dân sinh, dân chủ. Năm 1966, ông cùng một số ... Phủ Tổng thống ngụy quyền...), được cử sang học tại Mỹ. Nhờ vậy, ông chuyển ra vùng giải phóng nhiều tin tức và tài liệu quan trọng của địch. Ông bị địch bắt và tra tấn dã man đến chết. Ông được Nhà nước truy phong quân hàm đại tá. Tôn Đức Thắng (20.8.1888 - 30.3.1980) Ông sinh ngày 20.8.1888 tại quê Cù Lao Ông Hổ, xã Mỹ Hòa Hưng, tổng Bình Thành, tỉnh Long Xuyên nay là tỉnh An Giang, trong một gia đình nông dân. Học xong tiểu học, ông lên Sài Gòn học trường Kỹ thuật Khoa Cơ điện - Tốt nghiệp, vào làm việc ở xưởng sửa chữa tàu biển Ba Son, rồi bị điều sang làm việc ở xưởng Toulon bên Pháp - Cuối năm 1917, Cách mạng Tháng 10 Nga thành công, các cường quốc đế quốc bao vây và tấn công Cách mạng Nga. Ngày 1/4/1919, ông cùng các sĩ quan và binh lính trên chiến hạm France nổi dậy làm binh biến, ông là người kéo cờ đỏ Cách mạng trên chiến hạm và cùng những người nổi dậy kéo lên bờ cùng nhân dân Nga làm mít-tinh chào mừng Cách mạng Nga. Năm 1920, ông bị trả về Sài Gòn. Năm 1925 ông gia nhập Thanh niên Cách mạng Đồng Chí hội, năm 1927 được bầu vào Ban Chấp hành Thành bộ Sài Gòn và Kỳ bộ Nam Kỳ. Ông bị thực dân Pháp đày ra Côn Đảo (1930 - 1945). Cách mạng Tháng 8 thành công, ông tham gia Xứ ủy và Ủy ban Hành chính Nam Bộ - Năm 1946, Trung ương điều ra Bắc phụ trách công tác mặt trận, Chủ tịch Hội liên Việt - Từ 1951 là ủy viên Trung ương Đảng cho tới lúc qua đời. Năm 1954, ông là Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch nước. Sau khi Hồ Chủ tịch qua đời, Quốc hội cử ông làm Chủ tịch nước. Ông từ trần ngày 30.3.1980, hưởng thọ 92 tuổi. Trần Quốc Thảo (1914 - 1957) Tên thật là Hồ Xuân Lưu. Quê làng Cổ Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Năm 1950, làm Thường vụ Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, kiêm Phó Tổng thư ký Công đoàn Việt Nam. Đến năm 1957, làm Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Ông bị địch bắt tại Phú Nhuận và bị đánh tới chết ngày 16-10-1957. Trịnh Đình Thảo (1901 - 1986) Quê Từ Liêm, Hà Nội. Du học ở Pháp, tốt nghiệp cử nhân văn chương, cao học kinh tế và thương mại, tiến sĩ luật khoa. Làm luật sư tại Tòa Thượng thẩm Sài Gòn nhiều năm. Sau Nhật đảo chính Pháp ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong nội các Trần Trọng Kim, đã ra lệnh thả hàng ngàn tù chính trị bị Pháp giam giữ. Năm 1968, ông ra chiến khu tham gia thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình Việt Nam. Từng giữ các chức vụ: Chủ tịch Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ hòa bình Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng cố vấn Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sau ngày đất nước thống nhất, ông là ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngày 31-3-1986, ông mất tại thành phố Hồ Chí Minh. Phạm Thiều (1904 - 1986) Quê xã Diễn Phúc, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Sau Cách mạng Tháng Tám, từng giữ các chức vụ: Giám đốc Sở Thông tin Nam Bộ, Chủ tịch Ủy ban hành chánh Sài Gòn - Chợ Lớn, Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh liên khu miền Đông, Vụ trưởng Vụ Sư phạm Bộ Giáo dục, Đại sứ tại Tiệp Khắc và Hungary, Giám đốc Thư viện Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh. Ngô Nhân Tịnh (? - 1816) Gốc người Quảng Đông sang ngụ ở đất Gia Định. Học trò Võ Trường Toản, cùng Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định được đương thời xưng tụng là nhà thơ lớn đất Gia Định xưa (Gia Định tam gia). Năm 1802, từng được làm Giáp phó xứ sang nhà Thanh rồi Chánh xứ sang Chân Lạp đem ấn sắc phong Nặc Ông Chân làm vua Chân Lạp. Năm 1812 làm Hiệp tổng trấn Gia Định phụ tá Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Nguyễn Hữu Thọ (1910 - 1996) Sinh tại xã Long Phú, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc huyện Bến Lức, tỉnh Long An). 11 tuổi, ông được sang Pháp du học. Sau khi tốt nghiệp cử nhân luật khoa (tháng 9-1932), ông về nước, mở văn phòng luật sư tại Mỹ Tho, Cần Thơ, làm Chánh Tòa án dân sự tỉnh Vĩnh Long. Từ 1947, ông lên Sài Gòn tham gia các hoạt động cách mạng. Ngày 16-10-1949, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1950, ông được cử làm Trưởng Phái đoàn đại biểu các giới Sài Gòn - Chợ Lớn, tổ chức các phong trào đấu tranh chống xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ của nhân dân thành phố. Hiệp định Genève 1954 ký kết, ông cùng một số tri thức Sài Gòn - Chợ Lớn thành lập Phong trào bảo vệ hòa bình và giữ chức Phó Chủ tịch của tổ chức này. Ông được bầu làm Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1962 - 1976) và Chủ tịch Hội đồng cố vấn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (1969 - 1976). Đất nước thống nhất, ông giữ nhiều trọng trách như Phó Chủ tịch nước, quyền Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Võ Trường Toản (? - 1792) Quê huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh). Ở ẩn dạy học, đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước như Ngô Tùng Châu, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh... Nguyễn Phúc Ánh mời ông đến giảng sách, bàn luận chính trị, muốn trọng dụng ông, nhưng ông một mực từ chối. Ngày 9-9 năm Nhâm Tý (27-7-1792) ông mất. Nguyễn Ánh ban hiệu cho ông là Gia Định xủ sĩ Sùng Đức Võ tiên sinh. Trần Văn Trà (1919 - 1996) Quê xã Tịnh Long, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Hai mươi tuổi, ông vào Sài Gòn hoạt động cách mạng. Mùa Thu năm 1945, ông tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn. Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông đảm nhận nhiều nhiệm vụ quan trọng: Khu trưởng khu 8, Xứ ủy viên Nam Bộ, Phó Tư lệnh Nam Bộ, Tư lệnh kiêm Chính ủy Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, Tư lệnh Phân liên khu miền Đông Nam Bộ. Tập kết ra Bắc, ông làm Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Giám đốc Học viện quân chính, Chánh án Tòa án quân sự Trung ương. Năm 1963, ông về Nam, đảm nhiệm các chức vụ: Tư lệnh quân giải phóng miền Nam, ủy viên Trung ương cục miền Nam, Phó Bí thư Quân ủy miền. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, ông là Phó tư lệnh Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh. Miền Nam được giải phóng, ông làm Chủ tịch ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định, Tư lệnh kiêm Chính ủy quân khu 7, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông được phong quân hàm Trung tướng năm 1959, Thượng tướng năm 1974 và được tặng thưởng hai Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân chương khác. Nguyễn Văn Trỗi (1940 - 1964) Quê ở Điện Bàn, Quảng Nam. Theo gia đình vào Sài Gòn, làm nghề thợ điện ở nhà máy đèn Chợ Quán, tham gia biệt động vũ trang thuộc Đại đội Quyết tử 65, cánh Tây Nam Sài Gòn. Anh bị bắt lúc 22 giờ đêm ngày 9-5-1964, giữa lúc đang gài mìn tại cầu Công Lý nhằm tiêu diệt phái đoàn quân sự cấp cao của Mỹ do Bộ trưởng Quốc phòng Robert Mac Namara dẫn đầu, sang Sài Gòn vạch kế hoạch tăng cường và mở rộng chiến tranh xâm lược ở cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam. Anh bị xử bắn tại vườn rau nhà lao Chí Hòa - Sài Gòn lúc 9 giờ 45 phút ngày 15-10-1964. Anh được tặng danh hiệu Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân. Lý Tự Trọng (1915 - 1931) Tên thật là Lê Hữu Trọng quê xã Thạch Minh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, sinh tại bản May, tỉnh Na Khôn, Thái Lan. Năm 1926, anh sang Quảng Châu học trung học, rồi làm việc tại cơ quan Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Ba năm sau, anh được phái về Sài Gòn công tác ở cơ quan Trung ương An Nam Cộng sản Đảng. Ngày 9-2-1931, trong cuộc mít-tinh tổ chức tại cổng sân banh Mayer để kỷ niệm khởi nghĩa Yên Bái, anh bắn chết viên thanh tra cảnh sát Legrand, bảo vệ diễn giả Phan Bôi. Anh bị bắt, bị tra tấn chết đi sống lại, nhưng luôn luôn giữ khí tiết cách mạng khiến những cai ngục cũng phải kính nể, gọi anh là "Ông Nhỏ". Trước khi bị thực dân xử bắn, anh còn hát vang bài Quốc tế ca. Phan Văn Trường (1878 - 1993) Quê làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội, những năm hoạt động của ông chủ yếu diễn ra ở Paris và Sài Gòn. Đỗ tiến sĩ luật khoa ở Pháp (là một trong những tiến sĩ luật khoa đầu tiên của nước ta), làm luật sư tại Tòa thượng thẩm Paris. Hoạt động trong phong trào yêu nước của Việt kiều tại Pháp, cùng với Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội đồng bào thân ái và Nhóm những người Việt Nam yêu nước. Viết nhiều bài cho tờ Le Paria (do Nguyễn Ái Quốc chủ trương). Cuối năm 1923, ông về nước, làm chủ bút hai tờ báo La Cloche Fêlée (Chuông Rè) và L'Annam (Nước Nam), đả kích mạnh mẽ chế độ thuộc địa của Pháp ở Đông Dương và góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác vào Việt Nam. Hai lần ông bị thực dân Pháp bắt giam: lần đầu ở Paris (cùng một lúc với Phan Châu Trinh), lần sau ở Sài Gòn (nhưng bị tạm giam ở Paris). Mai Thọ Truyền (1905 - 1973) Là một Đốc phủ xứ ngoại hạng, một trong những người sáng lập chùa Xá Lợi (Sài Gòn) và Hội Phật học Nam Việt, Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa (Sài Gòn). Ông mất ngày 17-4-1973 tại Sài Gòn. Ngô Gia Tự Sinh ngày 3-12-1908, ở Từ Sơn, Bắc Ninh. Năm 1926, gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội. Cuối năm 1928 vào Sài Gòn hoạt động cách mạng. Cuối năm 1930, bị địch bắt tại Sài Gòn. Tháng 5-1933, thì bị đày ra Côn Đảo. Cuối tháng 1-1935, chi bộ nhà tù tổ chức cho ông và một nhóm anh em vượt ngục, nhưng ông và các đồng chí đã mất tích giữa biển. Hoàng Việt (1928 - 1967) Sinh tại Chợ Lớn, tên thật là Lê Chí Trực. Từ 16 tuổi, ông đã bắt đầu sáng tác, được nhiều người biết đến với những bài Chí cả, Biệt đô thành, Tiếng còi trong sương đêm (Ký tên Lê Trực). Ông tham gia cách mạng, công tác trong Tổ quân nhạc của Quân khu 8. Ông nổi tiếng với những ca khúc phục vụ kháng chiến như Lá xanh (1950), Lên ngàn (1952), Nhạc rừng (1953), Mùa lúa chín (1953-1954)... Sau Hiệp định Genève, ông tập kết ra Bắc, tiếp tục sáng tác. Bản Tình ca (1957) được những người yêu nhạc đánh giá là một trong những tình khúc hay nhất của nền âm nhạc nước ta. Sau đó, ông xin về Nam phục vụ kháng chiến. Ông tiếp tục sáng tác nhiều ca khúc, bản giao hưởng Cửu Long, nhạc kịch Bông Sen... Ngày 31-12-1967, ông hy sinh khi chưa tròn 40 tuổi. Trương Phước Vĩnh Ông là người đầu tiên giữ chức Điều khiển, Thống suất toàn bộ quan binh các dinh, các trấn ở miền Nam. Ông có công dẹp tan giặc Sà Tốt (làng Prea Sot) năm 1731 và cho đắp lũy Hoa Phong (dấu vết còn ở gần chùa Cây Mai) để ngăn giặc. (Sài Gòn 300 năm - NXB CTQG)
File đính kèm:
- tai_lieu_sai_gon_nhan_vat.doc