Tài liệu Phan Bá Vành
Trưa mùa hè đổ nắng lửa xuống cánh đồng Minh Giám.
Thúc trâu đi nốt sá cày cuối cùng, Bá Vành bặm môi ấn lút mũi sắt nhọn xuống bùn, lột phăng tấm áo cộc, giật mạnh chiếc nón mê, quạt thốc một hồi vào bộ ngực vạm vỡ như đá tảng. Từ đầu bờ xa tít tắp, tiếng cu Vò khàn khàn gọi với tới, giục Vành nghỉ tay ăn trưa. Cái đói âm ỉ giày vò suốt buổi, giờ bỗng dội cồn lên. Bá Vành tháo ách trâu, thuận tay đập luôn một roi cho con vật chạy lồng lên bờ, chỗ người đầy tớ của chủ đất đang đứng đợi. Bóng người và vật nhòa đi trong nắng chói. Bá Vành vớ lấy chiếc bắp cày đẩy chét tay, khẽ nheo mắt, đoạn vươn cánh tay dài như tay vượn, lao đánh vụt. Đòn tre nặng bay vù qua hơn một mẩu ruộng, cắm phập ngay trước mặt cu Vò! Bùn nước bắn vung tung tóe, nhưng Vò vẫn đứng nguyên vuốt mặt cười ồ ồ: Tài ném lao của anh Vành đã khét tiếng khắp vùng này, đích dẫu có xa đến mấy cũng chẳng chệch được một phân mà sợ!
Bá Vành ào ào lội ruộng đi tới. Nhìn rá cơm với bát tương và ấm nước vối. Vành tần ngần một lúc rồi bỗng vớ lấy ấm nước, tu một hơi cạn sạch.
Khuỳnh bắp tay quệt những giọt nước chảy ròng ròng dưới cằm, Vành bảo Vò:
- Mày chạy nhanh về nhà tao, đưa rá cơm này cho mẹ và vợ tao, bảo là phần thằng Vành gửi!
Cu Vò ngơ ngác nhìn Vành, nhưng vẫn cứ cầm rá cơm, ré chân bước vội, bởi đã biết cái tính quả quyết mà nóng nảy như lửa sôi của con người này.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu Phan Bá Vành
Phan Bá Vành Trưa mùa hè đổ nắng lửa xuống cánh đồng Minh Giám. Thúc trâu đi nốt sá cày cuối cùng, Bá Vành bặm môi ấn lút mũi sắt nhọn xuống bùn, lột phăng tấm áo cộc, giật mạnh chiếc nón mê, quạt thốc một hồi vào bộ ngực vạm vỡ như đá tảng. Từ đầu bờ xa tít tắp, tiếng cu Vò khàn khàn gọi với tới, giục Vành nghỉ tay ăn trưa. Cái đói âm ỉ giày vò suốt buổi, giờ bỗng dội cồn lên. Bá Vành tháo ách trâu, thuận tay đập luôn một roi cho con vật chạy lồng lên bờ, chỗ người đầy tớ của chủ đất đang đứng đợi. Bóng người và vật nhòa đi trong nắng chói. Bá Vành vớ lấy chiếc bắp cày đẩy chét tay, khẽ nheo mắt, đoạn vươn cánh tay dài như tay vượn, lao đánh vụt. Đòn tre nặng bay vù qua hơn một mẩu ruộng, cắm phập ngay trước mặt cu Vò! Bùn nước bắn vung tung tóe, nhưng Vò vẫn đứng nguyên vuốt mặt cười ồ ồ: Tài ném lao của anh Vành đã khét tiếng khắp vùng này, đích dẫu có xa đến mấy cũng chẳng chệch được một phân mà sợ! Bá Vành ào ào lội ruộng đi tới. Nhìn rá cơm với bát tương và ấm nước vối. Vành tần ngần một lúc rồi bỗng vớ lấy ấm nước, tu một hơi cạn sạch. Khuỳnh bắp tay quệt những giọt nước chảy ròng ròng dưới cằm, Vành bảo Vò: - Mày chạy nhanh về nhà tao, đưa rá cơm này cho mẹ và vợ tao, bảo là phần thằng Vành gửi! Cu Vò ngơ ngác nhìn Vành, nhưng vẫn cứ cầm rá cơm, ré chân bước vội, bởi đã biết cái tính quả quyết mà nóng nảy như lửa sôi của con người này. Còn lại một mình, Bá Vành duỗi chân ngồi cạnh bóng trâu, đưa mắt nhìn quanh. Cánh đồng Minh Giám quạnh quẽ, tiêu điều, vàng vất hơi nắng trắng khô. Sau lũy tre làng, khói cơm trưa thưa thớt, vật vờ. Đã ba năm liền, cái vựa lúa Trấn Sơn Nam Hạ này bị thần đói vật cho nhừ tử rồi! Dân các làng trong miền, từ những kẻ vong mạng đánh liều tụ tập nhau làm giặc, còn thì chạy đói, bỏ cửa nhà mà phiêu dạt đi các xứ đến quá nữa. Những người già cả ở nhà còn cố gượng bám lấy xóm làng, vừa lần hồi sinh nhai, vừa vuốt ngực thở dài, nhắc lại chuyện trăm năm trước: Đời Lê mạt, miền này cũng đã từng bị cơn đói kém tàn hại, đất mất người đến nỗi ruộng bỏ hoang cho lau cỏ mọc thành rừng rậm, và thú rừng nhan nhản tràn về ngự trị thay người... Bọn cường hào, ác bá, tham quan, nhũng lại, và cả cái triều đình mục nát của nhà Nguyễn chính là những kẻ đã gây ra tất cả những tai vạ đó. Chúng đục khoét, bòn rút, hà hiếp người nghèo cho đến tàn rụi, kiệt cùng. Sức dài vai rộng như Bá Vành, mồ côi cha nhưng may có mẹ hiền vợ thảo đùm bọc, vậy mà cày thuê bừa mướn cho chủ đất khắp vùng, vẫn chẳng đủ miếng cơm nuôi miệng! Cơn đói lại cuộn lên. Bá Vành uất ức nghiến răng kèn kẹt. Tài võ nghệ, chí lược thao và sức mạnh tuyệt trần, gần xa đều thán phục như thế này mà đành bó tay chịu cảnh đói khổ mãi sao? Nếu không làm cuộc đổi đời thì bao giờ mới thoát cảnh đày đọa này? Chiều hôm ấy, không trở lại nhà chủ nữa, Phan Bá Vành đánh thẳng con trâu mộng của chủ đất về nhà mình. "Vành tôi cùng với mẹ và vợ, làm đã cật lực mà vẫn sắp chết đói cả. Bây giờ chỉ còn có cách đánh lại chúng nó thì mới sống được mà thôi. Bà con làng xóm ai muốn hết khổ thì đi theo tôi! Sẵn có trâu béo đây, Vành tôi xin mở tiệc khao quân. Rượu thịt no say rồi thì cùng nhau làm cuộc đổi đời...". Phan Bá Vành vừa sải chân bước giữa xóm nghèo của mình, vừa cất giọng nói oang oang như vậy. Cu Vò là người đầu tiên thấy chuyện lạ, vội gấp nghé tới xem. Được lệnh Bá Vành đi mời tìm bà con xóm giềng và người quen kẻ lạ gần xa lúc đầu Vò còn ngập ngừng ngần ngại, nhưng rồi cuối cùng cũng hăm hở, tất bật chẳng kém gì Bá Vành. Bữa tiệc thịt trâu hôm ấy thực đủ vẻ náo nức, dữ tợn, bồn chồn, hồi hộp. Khoản đãi những người theo mình đi làm cuộc đổi đời, và cũng là để một lần tạ nghĩa mẹ, giã từ vợ, Bá Vành cầm chắc ngọn lao sở trường, ra đi. Tin Phan Bá Vành đã nỗi dậy khởi nghĩa chống triều đình nhà Nguyễn lập tức lan truyền đi khắp các ngả. Một đồn mười, mười đồn trăm, miền Sơn Nam Hạ sôi lên sùng sục như nước vỡ bờ. Bấy giờ là tháng bảy năm Ất Dậu, đời Minh Mệnh thứ sáu. Một đêm quang mây, người vùng Sơn Nam Hạ nhìn lên trời bỗng tròn mắt, ngây người đứng sững: Phía Đông Nam một ngôi sao tua rua vụt hiện ra chói lóa, đuôi sao cực lớn kéo dài lê thê về hướng Tây Bắc như chiếc chổi quái dị. Thế rồi, ồn ào hoặc thầm kín, thành kính mà thích thú, người vùng Sơn Nam truyền cho nhau câu hát kỳ lạ: "Trên trời có ông sao tua Ở làng Minh Giám có Vua Bá Vành" Phan Bá Vành theo sau là cu Vò, ung dung bước qua chiếc cổng đồ sộ có chòi canh chắc chắn xây cao bên trên của nhà Tri Đạo. Đây là nhà hào phú lớn nhất làng Cát Già. Và chính cái kho của vựa lúa nhà này đang được người thủ lĩnh nghĩa quân nhằm vào để toan tính chuyện lương tiền cho đạo quân mới nổi của mình. Tri Đạo ngả người trên chiếc tràng kỷ, đang phe phẩy chiếc quạt lông tàu thì thấy Bá Vành đột ngột xuất hiện. Cài vội chiếc áo lụa mỡ gà, Tri Đạo chồm dậy, luống cuống mời Bá Vành ngồi lên sập trên, rồi lập tức, quát bảo gia nhân mổ lợn giết gà, làm tiệc ngay. Mâm rượu thịt đầy có ngọn bày lên, Bá Vành thong thả ăn uống cho đến khi ngà ngà mới nói cho Tri Đạo biết mục đích đến chơi của mình. Ngồi thấp thỏm tiếp rượu con người oai danh đang nổi như sóng cồn ấy, Tri Đạo cũng đã phần nào đoán biết được câu chuyện. Vả chăng, cũng chẳng còn con đường nào khác, viên phú hào bèn mượn hơi men, nói với Bá Vành: - Cái gia tài cơ nghiệp này giao cả cho tướng quân tôi chẳng hề tiếc. Chỉ tiếc là nghe nói đã nhiều mà chưa một phen được biết tài võ nghệ của tướng quân... Bá Vành ngửa mặt cười khà khà, uống tiếp ba chén rượu nữa rồi mới bảo Tri Đạo: - Ông gọi người nhà chặt cho ta mươi gốc tre đực dài độ ba thước. Bá Vành giang rộng hai cánh tay vượn ra hiệu làm cữ, rồi mang cả vào đây! Khi đám gia nhân Tri Đạo lễ mễ khuân đống gốc tre vào dựng bên sập, Bá Vành khẽ liếc mắt ra hiệu cho cu Vò từ nãy vẫn khoanh tay đứng hầu ở phía sau. Lập tức, Vò rút con dao bên sườn, thoăn thoắt đẽo vạt nhọn hoắt những gốc tre thành ngay những ngọn lao lợi hại, quen thuộc. Gạt mâm thịt đã vơi quá nữa sang một bên, Bá Vành lúc ấy mới vươn người bước xuống sập, chìa tay đón lấy ngọn lao đầu tiên tự tay cu Vò đưa tới. Đảo mắt nhìn nhanh ra phía ngoài, Bá Vành vung tay, quát khẽ: - Coi đây! Ngọn lao xé gió vụt ra cửa, qua chiếc sân lát gạch Bát Tràng thênh thang, qua khu vườn rau dài dặt, qua chiếc ao thả cá bát ngát, cắm phập vào một thân cây chuối ngả mình bên kia bờ ao. Cu Vò đã nhanh tay đưa tiếp ngọn lao thứ hai, rồi thứ ba, thứ tư... Cuối cùng, Bá Vành vẫn không đổi sắc mặt thong thả trèo lên sập, cầm tiếp chén rượu. Tri Đạo và đám gia nhân chạy ùa ra cửa, hấp tấp đi mãi tới bên kia bờ ao. Và tất cả đều lặng người, sợ xanh mặt: Đều chằn chặn, thẳng tăm tấp, từ ngọn chuối xuông đến gốc, cứ đúng một gang tay lại một ngọn lao của Bá Vành cắm ngập! Ngày hôm ấy, Tri Đạo đem hết cả gia nhân tài sản, đi theo nghĩa quân Bá Vành. Chẳng bao lâu, số người tụ nghĩa dưới ngọn cờ Bá Vành đã lên đến trên năm nghìn. Những cánh tay vừa rời cày cuốc nắm lấy giáo gươm ấy Bá Vành tập hợp một phần thành đội Hữu quân, giao cho Nguyễn Hạnh, người tùng Đảng với mình làm tướng, còn thì đưa tất cả cho đội trung quân do chính mình chỉ huy. Nghĩa quân Bá Vành tiến đánh các huyện Tiên Minh và Nghi Dương để làm căn cứ đầu tiên. Và cũng tại căn cứ này, họ đã đánh trận đầu tiên với một lực lượng đàn áp khổng lồ của triều đình thống trị. Nhà Nguyễn đã tung ra cả một đội quân lớn, do tiền quân Đô thống chế Trương Văn Minh chỉ huy, Thượng thư Nguyễn Hữu Thân làm phó, có cả thủy đội lấy ở Nghệ An, Thanh Hóa ra phối hợp ngăn chặn nghĩa quân từ mạn biển. Vừa mới nổi dậy đã gặp phải một đội quân tiểu phạt đông đảo như thế, nghĩa quân Bá Vành không đương nổi, phải vừa đánh vừa chạy về mạn Nam Định. "Gặp cùng chớ đuổi". Đô thống chế Trương Văn Minh vừa hồi hộp nghĩ tới nhưng ân tứ thưởng lệ của triều đình sau võ công này, vừa làm ra vẻ bình thản nói với tả hữu như thế. Và ra lệnh thu quân. Trấn thủ Sơn Nam Hạ Lê Mậu Cúc luôn mấy ngày nhận được mấy tin cấp báo: Phan Bá Vành lại mới nổi dậy, thanh thế rất mạnh; Phan Bá Vành đã liên kết được với chức Thủ ngự sứ Vũ Đức Cát ở cửa Ba Lạt. Chưa kịp đối phó, tin dữ lại tới tấp bay về: Các tướng Đặng Đình Miễn và Nguyễn Trung Diễn trấn giữ các tấn sở Trà Lý và Lân Hải đã bị Phan Bá Vành đem quân giết chết rồi chiếm lấy tấn sở; đoàn quân thuyền mười hai chiếc của triều đình đã bị Phan Bá Vành phục quân ở Cồn Tiền, Bá Trạch đánh úp, tước mất toàn bộ lương thảo, quân khí... Không chậm trễ được nữa, Lê Mậu Cúc vội mở cổng trấn thành, đưa toàn bộ quân lính trong trấn đi tiểu phạt. Hào kiệt hầu Đỗ Hào tay chân thân tín của Mậu Cúc, quê ở Trà Lý, được cử làm tiền đạo, đem quân dẫn đường. Vừa đến Trà Lý thì bỗng gặp ngay Phan Bá Vành cùng mấy thủ hạ đang kéo đi trên đê. Nhác thấy viên chủ tướng nghĩa quân chồm dậy trên mình ngựa, vươn cánh tay vượn nắm lấy cây siêu dài, từ xa, tiền đạo Đỗ Hào đã khiếp đảm hô quân lùi lại. Trấn thủ Lê Mậu Cúc lúc ấy vừa dẫn đại quân tới nơi, thấy vậy giận dữ thúc ngựa xông thẳng lên. Phan Bá Vành cũng lập tức phi ngựa tới đó. Trống trận nỗi lên ầm ầm như sấm động. Con đê Trà Lý bụi cuốn mù mịt. Quân đội triều đình dàn ra dọc đê, nín thở nhìn theo chủ tướng của mình. Đôi ngựa chiến mỗi lúc lao tới gần nhau. Lê Mậu Cúc xưa nay vốn tự đắc về cái sức khỏe như thần của mình, biết Bá Vành chỉ còn ít quân, liền hăm hở xỉa ngọn thương, tới tắp tiến đánh ngay từ hiệp đầu. Thấy kẻ địch hùng hổ, viên thủ lĩnh nghĩa quân bỗng nỗi cơn lôi đình, vừa gầm hét, vừa vung siêu đao đánh trả. Đôi ngựa lúc chồm sát vào nhau, lúc vượt ra xa rồi lại quay vòng trở lại giao chiến đến hiệp thứ ba thì Phan Bá Vành đã đâm Lê Mậu Cúc một nhát trúng vai, hất Trấn thủ Sơn Nam từ trên mình ngựa ngã nhào xuống chân đê. Thấy chủ tướng thất trận, Đỗ Hào vội vã hô quân ào ra dìu Lê Mậu Cúc chạy lộn về. Phan Bá Vành cũng giật cương quay ngựa trở lại với đám thủ hạ của mình, lúc này đang nhảy dựng cả lên mà hò reo tưởng đến vỡ trời trước thắng lợi của chủ tướng. Tin Trấn thủ Sơn Nam Hạ Lê Mậu Cúc, danh tướng đất Bắc, phò mã của Hoàng triều bị tử trận trong khi đem quân gia ... ủa y đã nhiều người có dáng quá tuổi đôi mươi! Loay hoay với điều ám ảnh ấy, chợt thấy quan Thượng bảo khanh Hoàng Quỳnh đã kính cẩn chực sẵn ở thềm điện, Minh Mệnh giở giọng truyền phán ngay: - Hai ba năm nay đại hạn luôn, khiến dân tình cơ cực, lòng người không yên. Các trấn thành hay tâu việc giặc cỏ nổi lên cướp phá... Hoàng đế ngừng lại, nhấp ngụm sâm trong chiếc chén ngọn do viên nội giám vừa dâng. "Trẫm nghĩ chưa rõ vì cớ gì! Hay tại đàn bà con gái bị giam hãm ở trong cung nhiều, khí âm uất tắc mà nên thế chăng? Nay lũ họ cũng ở trong cung không nhiều lắm, song hãy tạm lựa ra cho bớt một trăm người, may ra tai biến giảm đi chăng? ". Minh Mệnh lại nhấp ngụm sâm nữa. Và trong khi chờ cho chức Thượng bảo khanh Hoàng Quỳnh kia lĩnh kỹ thánh ý, trước khi truyền phán tiếp về việc phải chọn thêm con gái trẻ đẹp nhập cung thay thế vào chỗ phi tần sẽ bị thải ra, hoàng đế lơ lãng lật chồng sớ mà quan Cơ mật đã đặt sẵn ở án thư chờ ngài ngự lãm. Nhưng vừa mới xem lướt qua mấy chữ, Minh Mệnh đã giật mình thất sắc. Mối hiểm họa Bá Vành ở Bắc thành mà y hằng quan tâm, giờ đã trở nên quá lớn rồi! Tập sớ tâu việc phò mã Lê Mậu Cúc, và thống chế Trương Phúc Đặng nối tiếp nhau tử trận, nông dân Bắc thành rậm rộ đi theo Phan Bá Vành... Bị vò nát trong các ngón tay run rẩy co quắp từ lúc nào chẳng biết! Minh Mệnh phút chốc quên mất cả việc cung tần mỹ nữ, vội vã hạ lệnh: Triệu tập ngay viện Cơ mật! Trong cuộc nghị bàn với viện Cơ mật hôm ấy, lúc đầu, quá hoảng sợ trước phong trào nông dân khởi nghĩa do Phan Bá Vành cầm đầu, hoàng đế nhà Nguyễn đã tính toán đến sự phải thân chinh. Nhưng sau đấy Minh Mệnh lại thay đổi ý kiến: Những đại thần cột trụ triều đình phải đi làm việc đó chứ không phải là hoàng đế! Vậy trước hết phải sai Tiền quân thống quản tiệp kính thập cơ Phạm Văn Lý làm thống tướng, Binh bộ thị lang Nguyễn Công Trứ làm tham tán, thủy quân đô đốc Phan Bá Hùng điều bát Hải đạo binh thuyền. Sau đấy, lại điều Phó đô thống chế, Nghệ An trấn thủ Nguyễn Văn Hiếu làm Sơn Nam kinh lược đại sứ, Hình bộ thượng thư Hoàng Công Xán, Binh bộ thị lang Thân Văn Duy làm Tham biện kinh lược sự vụ. Cả một bầy quan tướng ấy đều phải lập tức lên đường, triệt cho kỳ được mối hiểm họa Ba Vành để ngài ngự được thanh thản mà đi dưỡng thân vàng mình ngọc! Phan Bá Vành đứng lên chòi cao của đại đồn Trà Lũ nhìn ra cánh đồng trống trước mặt. Bụi đất ở đấy vẫn còn chưa tan. Dư âm của những hồi trống trận vẫn còn chưa tắt. Ánh nắng xiên khoai đục vẫn một màu vàng dữ dội của buổi chiều chiến trường. Nghĩa quân của tướng Hải Đăng lại vừa tay khiên tay đao phá tan một cánh quân triều đình ở đấy. Đại quân triều đình mấy trận gần đây dường như đã đổi cách đánh. Hồi mới kéo quân tới Sơn Nam, thống tướng Phạm Văn Lý đã khiến Phan Bá Vành phải khó chịu vì cách đánh của hắn. Văn Lý né tránh tất cả các cuộc giao chiến với nghĩa quân. Cùng với tham tán Nguyễn Công Trứ, có Hải thuyền của Phan Bá Hùng hỗ trợ, hắn đóng quân thành những đồn lớn, vây quanh vùng hoạt động của Phan Bá Vành. Quân của Văn Lý chỉ thỉnh thoảng mới dóng súng thần công nã vào trại quân Bá Vành, còn thì chủ yếu là làm vây cánh cho bọn kinh lược Nguyễn Văn Hiếu, tham biện Hoàng Kim Xán và Thân Văn Duy trị dân, triệt đường lương thảo của nghĩa quân. Những đồn quân của Văn Lý như thế, thường được phòng thủ khá vững. Có lần, chính thân Phan Bá Vành đã đem năm nghìn nghĩa quân, tất cả đều trần trụi, chỉ đóng khố bằng bẹ chuối, giữa ban đêm vác trường đao lăn xả vào phá đồn của Văn Lý, xung sát đến ba lần mà cũng không vào được quân doanh của hắn. Vướng quân của Văn Lý, các cánh nghĩa quân của Bá Vành dần dần đều phải tụ về quanh chủ tướng. Và Bá Vành đã phải đưa tất cả về vùng đất võ Trà Lũ này, xây đại đồn, cố thủ. Nhưng dồn được nghĩa quân về vùng này rồi, Văn Lý xem ra lại muốn đổi cách đánh. Hắn bắt đầu tung lực lượng, giao chiến đàng hoàng với nghĩa quân. Mấy trận đánh dữ dội như trận đánh với Hai Đáng chiều nay đã xảy ra. Dân Trà Lũ, từ nhỏ đã học sử dụng khiên đao, khét tiếng đất võ, lần này theo Bá Vành, đã mấy trận làm quân triều đình khiếp vía. Nhưng liệu có đánh mãi được thế không? Đứng trên chòi cao của đại đồn Trà Lũ chiều hôm ấy, nhìn các thủ lĩnh nghĩa quân đang quây lấy tướng Hai Đáng vừa thắng trận trở về, cặp mắt sắc như gương của Phan Bá Vành thoáng một nét đăm chiêu. Đôi mày nét mác cau lại, Bá Vành thấy dội bên tai lời các tướng Chiêu Văn, Bất Hựu nói với mình mấy hôm trước: "Giặc đã vào sâu rồi! Ta nên nhân lúc thế lực của giặc chưa dày mà đánh cho mỏng đi!". Đúng, có lẽ phải như thế! Cần dốc toàn lực, nhân lúc Phan Văn Lý đang còn điều quân tới chưa đủ mà đánh một trận sống mái, nếu không phá được giặc thì cũng mở được vây, Bá Vành đã thấy phân vân ngần ngại... Những giọt nước mắt, rồi những tiếng nói nũng nịu, những bàn tay ve vuốt, những cử chỉ chiều chuộng của người vợ lẽ mới, giờ chắc đang chờ đợi Bá Vành ở nhà, bỗng lái hẳn chiều suy nghĩ của viên chủ tướng nghĩa quân về một hướng khác. Ba Vành xoay người, bước vội xuống chòi. Quả nhiên, người đàn bà mặt hoa da phấn đã đon đả đứng chờ Bá Vành trước thềm nhà. Bị bắt trong một trận đánh Phủ Bo ngày trước, Thị Tú, người đàn bà ấy con gái yêu của Tri phủ Trần Thước, may nhờ sắc đẹp và tài khéo, nên chẳng những thoát chết mà còn được Phan Bá Vành dung nạp làm vợ Lẽ. Rất biết lợi dụng sắc đẹp và tài khéo của mình để thi hành kế sách của viên thống tướng triều đình: Giữ chặt Bá Vành ở Trà Lũ để quân triều đình tiêu diệt! Đón Phan Bá Vành bước qua bậc cửa, Thị Tú vừa phe phẩy quạt và lần tay cởi áo cho viên chủ tướng nghĩa quân, vừa cất giọng ỏn thót: - Thiếp xin kính mừng tướng quân lại thắng trận. Tiệc rượu mừng thiếp đã dọn đây! Lũ quân triều hèn đốn ấy, xin cứ để kéo đến cho thêm đông, nuôi chúng cho thêm béo, rồi khi ấy tướng quân hãy ra oai một trận sấm sét, chẳng việc gì phải bận lòng nhọc sức... Quàng cánh tay trần qua vai Bá Vành, kề chén rượu tận môi viên chủ tướng nghĩa quân, con rắn độc của Phan Văn Lý đang nhả nọc mỹ nhân kế, nối giáo cho quân triều đình... Các tướng của Bá Vành cuối cùng cũng giật được thủ lĩnh của họ ra khỏi mạng lưới mỹ nhân kế. Một buổi sớm, đưa được Bá Vành đi tuần thám một lượt khắp bốn bề đại đồn Trà Lũ, Chiêu Liễn, Nguyễn Hạnh đã chỉ cho chủ tướng thấy rõ bên quân triều đình, dinh trại cờ quạt la liệt san sát khắp đồng nội, quây chặt lấy nghĩa quân không còn một kẽ hở. Thế trận liên hoàn của Phạm Văn Lý dồn nghĩa quân vào tử địa đã bày xong! Giờ mà tung quân ra mà đánh thì muộn mất rồi Phan Bá Vành uất nghẹn đến tận cổ, trợn mắt hộc lên một tiếng. Ngay ngày hôm ấy, lộ rõ chân tướng, Thị Tú bị điệu ra chém đầu. Và nghĩa quân cùng với nghĩa dân Trà Lũ được lệnh sắm sửa mai, cuốc, thúng sọt, sẳn sàng cùng với binh khí của mình. Đợi đêm đến, họ sẽ khơi một con ngòi chạy suốt từ sông Cát Giang thông sang đến sông Ngô Đồng mở đường máu để Bá Vành phá vây. Con người kỳ lạ đã làm xong chỉ trong một đêm. Mờ sáng, nghĩa quân Bá Vành theo đường sông đào, ồ ạt đổ ra ngoài. Họ đã liều chết tả xung hữu đột, giao chiến với quân triều đình suốt cả ngày hôm ấy, máu chảy đỏ cả đoạn sông. Nhưng rồi vòng vây vẫn không phá được. Quân triều đình, hết lớp này đến lớp khác, kéo tới như kiến cỏ. Và khi chiều đến, Phan Bá Vành cũng trúng thương ở đùi. Tả hữu tan tác mỗi người một ngả, chỉ còn một mình cu Vò vẫn người thủ hạ trung thành ấy bên mình đeo một ống vầu đựng rượu, xả thân cõng chủ tướng tháo chạy. Trong sáu ngày đêm, giấu Bá Vành trong một vạt lau rậm bên bờ tả ngạn sông Đồng Giang, dùng chỗ rượu trong chiếc ống vầu duy nhất còn bên người, Cu Vò nâng giấc, chữa chạy vết thương cho chủ tướng. Sang ngày thứ bảy, rượu hết. Vò lần ra bờ sông múc nước. Vừa vác được ống vầu về rửa vết thương cho Bá Vành thì đã thấy có tiếng động: Một người đàn bà bắt cua tình cờ nhác thấy bóng người trong bụi lau hoang dại, đã tò mò theo hút Cu Vò, lần vào đến tận nơi. Gặp cảnh kinh lạ, người đàn bà hoảng hốt toan chạy trốn thì Bá Vành đã ôn tồn gọi lại. Biết đấy là người Hoàng Nha, viên thủ lĩnh nghĩa quân gọn giọng nói: - Chị có biết cai tổng Lê Tuấn không? Hắn là con của người môn hạ ta đó! Về bảo hắn đến đây, ta sẽ giao cả thân ta cho hắn... Biết trước mặt mình là Vua Bá Vành người đàn bà sụp xuống lạy ba lạy, và phải để giục đến mấy lần, nước mắt ròng ròng mà quay đi. Rồi cai tổng Lê Tuấn đã hối hả tìm đến ngay sau đấy, đem theo cả võng lọng. Rước Phan Bá Vành về nhà, ba ngày liền, Lê Tuấn cung kính thuốc thang, cơm rượu phục dịch hết lòng. Đến ngày thứ tư, theo lệnh của người thủ lĩnh nghĩa quân, viên cai tổng cho đóng một chiếc cũi lớn, khiêng đến bên sập Bá Vành. Chít một chiếc khăn màu đỏ lên đầu, Bá Vành ung dung bước vào cũi, để cho tay chân của Lê Tuấn khiêng đi nộp quan lấy thưởng. Người thủ lĩnh nghĩa quân ngồi yên lặng trong cũi suốt một đoạn đường dài. Đến địa phận xã Đồng Phú, huyện Thượng Nguyên, những người khiêng cũi đang chạy gằn bỗng thấy tay đòn lắc đảo dữ dội và Bá Vành lảo đảo ngã vật: Người thủ lĩnh nghĩa quân đã móc rốn, moi ruột, tự tử. Bấy giờ là năm Đinh Hợi, đời Minh Mệnh thứ tám. Hơn Hai mươi năm sau. Miền Nam Sơn lại một lần nữa sôi lên sùng sục. Tráng đinh các thôn làng thi nhau sắm khiên, rèn đao, luyện võ. Căm ghét triều đình nhà Nguyễn đến tận xương tủy, già trẻ nơi nơi sôi nổi truyền cho nhau cái tin "Vua châu chấu" đã nổi ở Mỹ Lương, chỉ nay mai sẽ kéo về, kén quân, chọn tướng ở vùng này làm cuộc đổi đời. Vào những ngày ấy, ở các phiên chợ Sơn Nam, thấy xuất hiện một người hát rong. Con người gầy guộc, râu tóc mới chớm hoa râm ấy đã cuốn hút người nghe, người xem, bằng một giọng hát rõ trầm mà nặng, bằng lối hát rất kỳ lạ: Cười đấy khóc đấy khi thì hào hùng sôi nổi, khi thì lắng đọng xót xa, và nhất là bằng lối hát thật mê say: "Nghênh ngang một cõi biên thùy Thiếu gì tướng tá, thiếu gì binh lương... Cuộc khởi nghĩa của Bá Vành đã sống dậy cùng với người chủ tướng kịch liệt của nó qua những lời hát ấy. Và con người đang truyền đi lời hát ấy chính là Cu Vò, người hầu cận trung thành của viên thủ lĩnh nghĩa quân năm xưa...
File đính kèm:
- tai_lieu_phan_ba_vanh.doc