Tài liệu Nhà Hậu Lê
Xây dựng đất nước
Giai doạn đầu là thời kỳ xây dựng lại đất nước sau thời bị nhà Minh đô hộ. Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ nhanh chóng bắt tay vào xây dựng đất nước bị tàn phá qua nhiều năm chiến tranh.
Sang thời Lê Thánh Tông, vua tiến hành một loạt cải cách đưa Đại Việt bước vào thời kỳ phát triển thịnh trị được coi là hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam. (xem chi tiết bài Lê Thánh Tông)
Hành chính
Lê Thái Tổ chia nước ra làm 5 đạo, đạo mới đặt gọi là Hải Tây đạo, gồm cả Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa. Trong các đạo, đạo nào cũng có quan Hành khiển để giữ sổ sách về việc quân-dân.
Dưới đạo là phủ huyện (miền núi gọi là châu), xã. Đến thời vua Lê Thánh Tông đổi chia làm 5 đạo thành 13 đạo thừ tuyên thay chức An phủ sứ đứng đầu ở mỗi đạo bằng 3 ti phụ trách ba mặt hoạt động khác nhau ở mỗi đạo thừa tuyên. Dưới đạo thừa tuyên có phủ. châu huyện xã.
Bộ máy chính quyền phong kiến được hoàn thiện dần và đến thời vua Lê Thánh Tông thì được các nhà nghiên cứu đánh giá là hoàn chỉnh nhất. Đứng đầu triều đình là vua. Để tập trung quyền lực vào nhà vua Lê Thánh Tông bãi bỏ một số chức vụ cao cấp nhất như tướng quốc đại tổng quản đại hành khiển. Vua trực tiếp nắm mọi quyền hành kể cả chức tổng chỉ huy quân đội. Giúp việc cho vua có các quan đại thần.
Nhà nước phong kiến tập quyền qua các đời từ nhà Trần chỉ có 4 bộ: Hình, Lại, Binh, Hộ. Đời vua Lê Thái Tổ chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ Bộ). Lê Thánh Tông tổ chức thành sáu bộ:
Lại Bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước;
Lễ Bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học hành thi cử, đúc ấn tín, cắt giữ người coi giữ đình, chùa, miếu mạo;
Hộ Bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng, thóc tiền và lương, bổng của quan, binh;
Binh Bộ: Trông coi việc binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu và ứng phó các việc khẩn cấp;
Hình Bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc tù, đày, kiện cáo;
Công Bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quản đốc thợ thuyền.
Dưới thời Lê Thánh Tông, các quan chỉ được làm việc tối đa đến tuổi 65 và ông bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các gia đình có công - công thần. Ông tôn trọng việc chọn quan phải là người có tài và đức.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu Nhà Hậu Lê
Nhà Hậu Lê Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (đổi hướng từ Nhà Lê) Bước tới: menu, tìm kiếm Mục từ "Nhà Lê" dẫn đến bài này. Xin đọc về các nghĩa khác tại Nhà Lê (định hướng). Nhà Hậu Lê (1418–1527, 1533–1789) là triều đại phong kiến được thành lập sau khi Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi) lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân Minh (xem chi tiết bài Lê Lợi). Nhà Hậu Lê gồm hai giai đoạn: Lê sơ (1428-1527) và Lê trung hưng (1533-1789). Thời Lê sơ (1428-1527) Thời Lê sơ kéo dài đúng 100 năm, có 10 vua thuộc 6 thế hệ. Xây dựng đất nước Giai doạn đầu là thời kỳ xây dựng lại đất nước sau thời bị nhà Minh đô hộ. Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ nhanh chóng bắt tay vào xây dựng đất nước bị tàn phá qua nhiều năm chiến tranh. Sang thời Lê Thánh Tông, vua tiến hành một loạt cải cách đưa Đại Việt bước vào thời kỳ phát triển thịnh trị được coi là hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam. (xem chi tiết bài Lê Thánh Tông) Hành chính Lê Thái Tổ chia nước ra làm 5 đạo, đạo mới đặt gọi là Hải Tây đạo, gồm cả Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa. Trong các đạo, đạo nào cũng có quan Hành khiển để giữ sổ sách về việc quân-dân. Dưới đạo là phủ huyện (miền núi gọi là châu), xã. Đến thời vua Lê Thánh Tông đổi chia làm 5 đạo thành 13 đạo thừ tuyên thay chức An phủ sứ đứng đầu ở mỗi đạo bằng 3 ti phụ trách ba mặt hoạt động khác nhau ở mỗi đạo thừa tuyên. Dưới đạo thừa tuyên có phủ. châu huyện xã. Bộ máy chính quyền phong kiến được hoàn thiện dần và đến thời vua Lê Thánh Tông thì được các nhà nghiên cứu đánh giá là hoàn chỉnh nhất. Đứng đầu triều đình là vua. Để tập trung quyền lực vào nhà vua Lê Thánh Tông bãi bỏ một số chức vụ cao cấp nhất như tướng quốc đại tổng quản đại hành khiển. Vua trực tiếp nắm mọi quyền hành kể cả chức tổng chỉ huy quân đội. Giúp việc cho vua có các quan đại thần. Nhà nước phong kiến tập quyền qua các đời từ nhà Trần chỉ có 4 bộ: Hình, Lại, Binh, Hộ. Đời vua Lê Thái Tổ chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ Bộ). Lê Thánh Tông tổ chức thành sáu bộ: Lại Bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước; Lễ Bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học hành thi cử, đúc ấn tín, cắt giữ người coi giữ đình, chùa, miếu mạo; Hộ Bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng, thóc tiền và lương, bổng của quan, binh; Binh Bộ: Trông coi việc binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu và ứng phó các việc khẩn cấp; Hình Bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc tù, đày, kiện cáo; Công Bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quản đốc thợ thuyền. Dưới thời Lê Thánh Tông, các quan chỉ được làm việc tối đa đến tuổi 65 và ông bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các gia đình có công - công thần. Ông tôn trọng việc chọn quan phải là người có tài và đức. Tổ chức quân đội Quân đội nhà Lê đang tập trận Lê Thánh Tông ra sắc chỉ đầu tiên là chỉnh đốn lại quân đội, đôn đốc và thực hiện các bước để tăng cường các khả năng chiến đấu của các vệ quân năm đạo. Việc canh phòng và cảnh giác về vấn đề biên cương rất chặt chẽ và cẩn thận nên triều đình nhà Minh rất tôn trọng và có phần e ngại. Lê Thánh Tông cải tổ quân đội mạnh mẽ về mặt tổ chức, trước đó quân đội chia làm 5 đạo vệ quân, nay đổi làm 5 phủ đô đốc. Mỗi phủ có vệ, sở. Bên cạnh còn có 2 đạo nội, ngoại, gồm nhiều ti, vệ. Ngoài tổ chức quân thường trực, Lê Thánh Tông còn chú ý lực lượng quân dự bị ở các địa phương gọi là chế độ "ngụ binh ư nông": khi đất nước có giặc ngoại xâm thì tất cả quân lính đều tại ngũ chiến đấu cùng toàn dân; khi hoà bình thì thay phiên nhau về làm ruộng. 43 điều quân chính là luật quân đội Lê Thánh Tông ban hành cho thấy kỷ luật quân đội của ông rất nghiêm ngặt, có sức chiến đấu cao. Quân đội có hai bộ phận chính: quân ở triều đình và quân ở các địa phương; bao gồm bộ binh thuỷ binh tượng binh kị binh. Vũ khí quân sự dưới thời Lê Thánh Tông đã có những tiến bộ vượt bậc, gồm đao, kiếm, giáo, mác, cung, tên, hỏa đồng, hỏa pháo. Hằng năm quân lính được luyện tập võ nghệ chiến trận. Vùng biên giới đều có bố trí quân đội mạnh canh phòng và bảo vệ không để xâm lấn. Kinh tế Đĩa gốm men lam trang trí rồng thế kỷ 15. Lê Thánh Tông còn quan tâm các chính sách nhằm phát triển kinh tế như, sửa đổi luật thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, mở đồn điền. Các ngành nghề thủ công nghiệp và xây dựng dưới thời trị vì của Lê Thánh Tông cũng phát triển rực rỡ. Thương mại và giao dịch buôn bán với các lân bang phát triển mạnh, cùng với bước chân viến chinh xa xôi của đội quân đế chế Đại Việt. Nông nghiệp Hai mươi năm dưới ách thống trị của phong kiến nhà Minh nước ta đã lâm vào tình trạng xóm làng điêu tàng ruộng đồng bỏ hoang đời sống nhân dân cực khổ. Để nhanh chóng phục hồi và phát triển nông nghiệp vua Lê Thái Tổ cho 25 vạn lính (trong tổng số 35 vạn) về quê làm ruộng ngay sau chiến tranh. Còn lại 10 vạn người được chia làm 5 phiên thay nhau về quê sản xuất. Nhà Lê kêu gọi dân phiêu tán về quê làm ruộng đặt ra một số chức quan chuyên lo về nông nghiệp như Khuyến nông sứ Hà đê sứ Đồn điền sứ định lại chính sách chia ruộng đất công làng xã gọi là phép quân điền cấm giết trâu bò bừa bãi cấm điều động dân phu trong muà cấy gặt. Công thương nghiệp Nhờ sự quan tâm đến việc phát triển thương nghiệp nên nền nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ. Các nghề thủ công như: Dệt lụa, ươm tơ, dệt vải, nghề mộc, nghề chạm, nghề đúc đồng cũng phát triển. Kinh đô Thăng Long 36 phố phường sầm uất, nhộn nhịp tồn tại phát triển đến tận ngày nay. Phường Yên Thái làm giấy, phường Nghi Tàm dệt vải lụa, phường Hà Tân nung vôi, phường Hàng Đào nhuộm điều, phường Ngũ Xá đúc đồng, phường gạch và gốm sứ Bát Tràng và nhiều phường khác... Các ngành nghề thủ công truyền thống như ở các làng xã như kéo tơ dệt lụa đan lát làm nón đúc đồng rèn sắt làm đồ gốm v.v... ngày càng phát triển. Nhiều làng thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời. Thăng Long là nơi tập trung nhiều ngành nghề thủ công nhất. Các công xưởng do nhà nước quản lí gọi là Cục bách tác sản xuất đồ dùng cho nhà vua vũ khí đóng thuyền đúc tiền đồng...; các nghề khai mỏ đồng sắt vàng được đẩy mạnh. Nhà vua khuyến khích lập chợ mới họp chợ ban hành những điều luật cụ thể quy định việc thành lập chợ và họp chợ. Việc buôn bán với nước ngoài được duy trì. Thuyền bè các nước láng giềng qua lại buôn bán ở một số cửa khẩu như Vân Đồn Vạn Ninh (Quảng Ninh) Hội Thống (Hà Tĩnh) và một số địa điểm ở lạng Sơn Tuyên Quan d8ược kiểm soát chặc chẽ. Các sản phẩm sành sứ vải lụa lâm sảm quý là những thứ hàng được thương nhân nước ngoài ưa chuộng. Giáo dục Ngay sau khi lên ngôi vua Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc Tử Giám ở kinh thành Thăng Long mở trường học các lộ mở khoa thi và cho phép người nào có học đều được dự thi. Đa số dân đều có thể đi học đi thi trừ những kẻ phạm tội và làm nghề ca hát. Ở các đạo phủ có trường công. Nhà nước tuyển chọn người giỏi có đạo đức để làm thầy giáo. Nội dung học tập thi cử là sách của nhà Nho. Thời Lê sơ (1428-1527) tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 989 tiến sĩ 20trạng nguyên. Riêng thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) tổ chức được 12 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 501 tiến sĩ 9 trạng nguyên. Lê Thánh Tông khởi xướng và cho lập bia tiến sỹ lần đầu tiên ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám vào năm 1484, các đời vua sau này tiếp tục bổ sung thêm các tấm bia vinh danh mới.. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, nhà Thái học, Quốc Tử Giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn, Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách, đặc biệt đã sáng lập Hội Tao Đàn bao gồm những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà Lê Thánh Tông là Tao Đàn chủ soái. Việc thi cử và học tập thường xuyên và rất nhiều tiến sĩ và trạng nguyên đỗ đạt và thành danh. Dưới thời Lê sơ nói chung, và trong thời trị vì Lê Thánh Tông nói riêng, Thời Lê sơ, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn; Phật giáo và Đạo giáo bị hạn chế. Phật giáo bị đẩy lui xuống sinh hoạt ở các làng xã, trong khi đó Nho giáo lại được coi trọng và lên ngôi, đặc biệt là khu vực triều đình và giới nho học. Đó là đặc điểm chính của thời kỳ này. Mặt khác do trước đó chịu sự tận diệt của nhà Minh nên nhiều chùa chiền, cung điện và các phật tử phát triển rực rỡ ở các triều đại nhà Lý, nhà Trần đã bị xóa bỏ. Luật pháp Xem bài: Luật Hồng Đức Một buổi triều của vua Lê Về luật pháp, Bộ Quốc triều hình luật của nhà Hậu Lê đã được hoàn thiện trong thời Lê Thánh Tông, nên còn được gọi là Luật Hồng Đức. Với bộ luật này, Đại Việt đã hình thành một nhà nước pháp quyền sơ khởi và thuộc loại sớm trên thế giới. Lê Thánh Tông đã lấy những quan điểm của nho giáo làm hệ tư tưởng, chỉ đạo việc biên soạn, ban hành luật pháp, nhằm thể chế hoá một nhà nước phong kiến Đại Việt, với truyền thống nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Nội dung chính của bộ luật là bảo vệ quyền lợi của vua hoàng tộc; bảo vệ quyền lợi của quan lại và giai cấp thống trị địa chủ phong kiến. Đặc biệt bộ luật có những điều luật bảo vệ chủ quyền quốc gia khuyến khích phát triển kinh tế gìn giữ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc bảo vệ một số quyền lợi của phụ nữ. Xã hội Trong xã hội, giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại đa số dân cư sống chủ yếu ở nông thôn. Họ có rất ít hoặc không có ruộng đất phải cày ruộng đất công nộp tô thuế đi phục dịch cho nhà nước (đi lính đi phu...) hoặc phải cày cấy ruộng thuê của địa chủ quan lại và phải nộp một phần hoa lợi (gọi là tô) cho chủ ruộng. Nông dân là giai cấp bị bóc lột nghèo khổ trong xã hội. Tầng lớp thương nhân thợ thủ công ngày càng đông hơn họ phải nộp thuế cho nhà nước và không được xã hội phong kiến coi trọng. Nô tì là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội bao gồm cả người Việt người Hoa dân tộc ít người. Pháp luật nhà Lê hạn chế nghiêm ngặt việc bàn mình làm nô hoặc bức dân tự do làm nô tì. Nhờ vậy số lượng nô tì giảm dần. Nhờ chính sách khuyến nông, cuộc sống của nhân dân được ổn định dân số ngày càng tăng. Nhiều làng mới được thà ... ăm 1736 (thời Cảnh Hưng) tại làng Bát Tràng. Tượng hổ bằng gốm làm tại làng Bát Tràng thời Cảnh Hưng. Tượng nghê bằng gốm làm tại làng Bát Tràng thời Cảnh Hưng. Sau cái chết của vua Anh Tông, cháu vua là Lê Kính Tông (Duy Tân - con vua Thế Tông) cũng có ý định chống Trịnh Tùng và cũng bị thắt cổ năm 1619. Kể từ đó các vua Lê hoàn toàn "khoanh tay rủ áo", như cách nói của các sử gia đương thời, đối với chính sự. Mọi công việc từ trị sự đến quân sự đều do chúa Trịnh đảm đương. Khi kinh thành được khôi phục, ngoài cung vua phía đông còn có phủ chúa ở phía tây. Vì vậy, mọi thành tựu, sự kiện, từ quân sự đến xã hội, thịnh trị hay rối ren, đều do tay họ Trịnh. Các chúa Trịnh đều là những người giỏi cai trị và ngoại giao nên tình hình Bắc Hà - khi họ Nguyễn đã cát cứ trong Nam - nhìn chung ổn định. Chẳng những việc chính sự mà ngay cả chuyện vợ con của các vua Lê cũng do các chúa Trịnh sắp đặt. Phần nhiều vợ các vua Lê là con gái họ Trịnh để ràng buộc. Sau Kính Tông, trong một thời kỳ dài không có vua Lê nào chống đối họ Trịnh. Tuy nhiên, các tôn thất không phải hoàn toàn chịu mất quyền, điển hình là Lê Duy Mật và thái tử Duy Vĩ. Lê Duy Mật định làm binh biến ở Thăng Long lật đổ họ Trịnh nhưng không thành nên trốn ra ngoài khởi nghĩa, cát cứ ở Trấn Ninh 30 năm trời. Thái tử Duy Vĩ (con vua Hiển Tông) cũng muốn khôi phục quyền cho nhà Lê nhưng bị chúa Trịnh Sâm giết năm 1771. Các vua Chân Tông, Huyền Tông, Gia Tông đều là vua thiếu niên và mất sớm. Các vua Thế Tông, Thần Tông, Dụ Tông, Hy Tông, Thuần Tông và nhất là Hiển Tông (Cảnh Hưng) sau này là những ông vua "khoanh tay rủ áo" như vậy. Khi Nguyễn Huệ ra bắc dẹp họ Trịnh (1786), vua Hiển Tông than thở: "Trời sai nhà chúa phò ta. Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui. Mất chúa, tức là cái lo lại về ta, ta còn vui gì". Câu nói đó phản ánh tư tưởng an phận giữ mình của các vua Lê. Nhà Lê kết thúc Xem thêm bài: Nhà Tây Sơn, Nguyễn Hữu Chỉnh Sau khi Hiển Tông mất, đúng lúc Tây Sơn rút về nam. Cháu vua là Duy Kỳ (con Duy Vĩ) lên thay, tức là vua Chiêu Thống. Được tác động của anh em Tây Sơn, vua Lê muốn khôi phục lại địa vị cũ, báo thù cho cha, nên khi họ Trịnh ngóc đầu trở lại, lập tức Chiêu Thống gọi tướng giỏi nhất Bắc Hà lúc đó là Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An ra cứu. Chỉnh đánh tan quân Trịnh, đuổi Trịnh Bồng đi mất tích. Nhưng sau đó vua Lê lại bị Chỉnh lộng quyền. Tây Sơn kéo ra giết Chỉnh, rồi tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm cũng mưu đồ cát cứ. Chiêu Thống phải bỏ đi lưu vong. Bản ý của Nguyễn Huệ vẫn muốn tôn phò nhà Lê, nhưng Chiêu Thống lại không muốn sống chung với Tây Sơn nên sang cầu viện nhà Thanh (1788). Nhà Thanh phát binh đánh Việt Nam. Trước tình thế đó, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, tức là vua Quang Trung mang quân đánh tan quân Thanh (1789), Chiêu Thống bỏ chạy theo về Trung Quốc. Dù sau đó Lê Duy Kỳ cố xin viện binh lần nữa nhưng bằng chính sách ngoại giao khéo léo, nhà Tây Sơn đã tránh được cuộc đụng đầu khác với nhà Thanh. Vua Thanh không phát binh nữa, phân tán các bầy tôi nhà Lê, tách khỏi Duy Kỳ để cô lập dần. Duy Kỳ uất hận chết ở Bắc Kinh năm 1792 lúc mới 28 tuổi. Nhà Hậu Lê chính thức mất năm 1789, trước sau tồn tại 355 năm, chỉ có 6 năm gián đoạn, là triều đại phong kiến dài nhất trong lịch sử Việt Nam (không tính Hồng Bàng). Nhận định Bia Điện Nam Giao đặt tại Điện Nam Giao thời Lê Trung Hưng Công lao, thành tựu Giống như Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng, nhà Hậu Lê lên cầm quyền ở Việt Nam nhờ công đánh đuổi người phương Bắc để giành lại nước. Nhưng khác với thế hệ trước, nhờ có cơ sở vững chắc 470 năm liên tục (938-1407) do các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần trước đó tạo dựng nên thành quả đánh ngoại xâm của nhà Hậu Lê được giữ gìn trong thời gian dài. Nước Đại Việt thời nhà Hậu Lê tồn tại được 360 năm (1428-1788). Các vua đầu thời Lê như Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông đều là những vua giỏi, đặc biệt là Thánh Tông, đã đưa Việt Nam tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Chẳng những có thành tựu về chính trị, kinh tế mà cả giáo dục và nhất là quân sự khiến nước Đại Việt được mở mang tới phía bắc Nam Trung Bộ. Cũng chính cuộc tấn công của vua Thánh Tông đánh dấu bước khởi đầu cho sự diệt vong của nước Chiêm Thành mà các chúa Nguyễn sau này hoàn thành. Dù trong cung đình nhà Lê luôn có biến, nhiều việc khuynh loát, tranh quyền xảy ra nhưng chính sách đối nội, đối ngoại không thay đổi, đời sống nhân dân được đảm bảo nên nước Đại Việt vẫn phát triển vững mạnh. Ngay thời Nhân Tông, dù vua còn nhỏ và Nguyễn Thái hậu chấp chính nhưng vẫn không gây xáo trộn xã hội, nhân dân không bị điêu đứng như thời Uy Mục, Tương Dực sau này. Chính thống, ngụy triều Lê Hiến Tông đã đúng khi chọn Túc Tông Thuần là người kế nghiệp nhưng vua này lại yểu mệnh và có lẽ đó là bước ngoặt đầu tiên của nhà Hậu Lê. Uy Mục tàn ác, Tương Dực xa hoa trụy lạc, Chiêu Tông thiếu sáng suốt. Cả 3 vua đều không đủ năng lực và quyền thần nổi lên nắm quyền như một lẽ tất yếu khi đất nước có biến loạn. Nếu không có Mạc Đăng Dung thì những quyền thần khác cũng làm điều tương tự, mà trong đó Trịnh Duy Sản, Trịnh Tuy, Nguyễn Hoằng Dụ, Trần Chân là những đại diện. Nhà Lê dài 350 năm nhưng thực tế chỉ tồn tại trong gần 100 năm đầu. Sau khi nhà Lê mất về tay nhà Mạc, vấn đề chính thống và ngụy triều nổ ra trong cuộc đấu tranh giữa các tập đoàn và khi thế nam - bắc này chưa chấm dứt hẳn thì thế nam - bắc khác lại hình thành. Cũng như thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc, khi nhà Hán suy, các chư hầu nổi dậy đều lấy danh nghĩa giúp nhà Hán; tại nước Đại Việt khi đó cả Trịnh và Nguyễn đều danh nghĩa chống Mạc để giúp nhà Lê. Các vua Lê vẫn có ngôi, có hiệu, có tên trong sử sách, nhưng chỉ ngồi làm vì. Trên thực tế không chỉ 16 vua thời Lê trung hưng mà ngay từ khi Cung Hoàng được lập, nhà Lê đã chỉ còn hư vị. Trịnh và Nguyễn cùng giương cờ "Phù Lê diệt Mạc", Tây Sơn giương cờ "Phù Lê diệt Trịnh". Giáo sư sử học Văn Tạo trong tạp chí "Nghiên cứu lịch sử" có bài viết "Nhà Mạc và vấn đề ngụy triều", trong đó nêu rõ: Mạc là ngụy công khai, Trịnh và Nguyễn là ngụy giấu mặt. Việc vua Chiêu Thống đã lên ngôi thay vua Cảnh Hưng năm 1786 nhưng Nguyễn Ánh, với danh nghĩa "phò Lê", song vẫn nhất định dùng niên hiệu Cảnh Hưng đến tận năm 1801 đủ cho thấy trong lòng Ánh có nhà Lê hay không. Việc Ánh gửi gạo ra bắc giúp quân Thanh thực ra là muốn thêm người đánh Tây Sơn chứ không thực bụng giúp nhà Lê. Nhà Lê chống ngoại xâm thành công mà thành người cai trị Đại Việt nhưng kết cục, vua cuối cùng của nhà Lê là Duy Kỳ lại giống những vua Việt Nam vì chống ngoại xâm thất bại mà phải chết ở đất khách quê người như Hậu Lý Nam Đế, Khúc Thừa Mỹ, Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương, Trần Ngỗi, Hàm Nghi... Các vua nhà Hậu Lê Nhà Lê sơ Miếu hiệu Thụy hiệu Tên húy Năm Niên hiệu Lăng Thái Tổ Thống Thiên Khải Vận Thánh Đức Thần Công Duệ Văn Anh Vũ Khoan Minh Dũng Trí Hoàng Nghĩa Chí Minh Đại Hiếu Cao Hoàng Đế Lê Lợi 1428-1433 Thuận Thiên Vĩnh Lăng Thái Tông Kế Thiên Thể Đạo Hiển Đức Thánh Công Khâm Minh Văn Tư Anh Duệ Triết Chiêu Hiến Kiến Trung Văn Hoàng Đế Lê Nguyên Long 1433-1442 Thiệu Bình (1434-1439) Đại Bảo (1440-1442) Hựu Lăng Nhân Tông Khâm Văn Nhân Hiếu Tuyên Minh Thông Duệ Tuyên Hoàng Đế Lê Bang Cơ 1442-1459 Thái Hòa (1443-1453) Diên Ninh (1454-1459) Nguyên Lăng Không có Không có rồi sau đó là Thiên Hưng Lê Nghi Dân 1459-1460 Thiên Hưng (1459-1460) Không có Thánh Tông Sùng Thiên Quảng Vận Cao Minh Quang Chính Chí Đức Đại Công Thánh Văn Thần Vũ Đạt Hiếu Thuần Hoàng Đế Lê Tư Thành (Lê Hạo) 1460-1497 Quang Thuận (1460-1469) Hồng Đức (1470-1497) Chiêu Lăng Hiến Tông Thể Thiên Ngưng Đạo Mậu Đức Chí Chiêu Văn Thiệu Vũ Tuyên Triết Khâm Thành Chương Hiếu Duệ Hoàng Đế Lê Sanh[10] (Lê Tăng)[11] (Lê Huy)[11] 1497-1504 Cảnh Thống Dụ Lăng Túc Tông Chiêu Nghĩa Hiển Nhân Ôn Cung Uyên Mặc Hiếu Doãn Cung Khâm Hoàng Đế Lê Thuần 1504 Thái Trinh Kinh Lăng không có rồi sau đó là Mục Tông Uy Mục Đế Lê Tuấn (Lê Huyên) 1505-1509 Thái Trinh Đoan Khánh An Lăng Lê Dực Tông Tương Dực Đế Lê Oanh 1510-1516 Hồng Thuận Nguyên Lăng Chiêu Tông Thần Hoàng Đế Lê Y (Lê Huệ) 1516-1522 Quang Thiệu Vĩnh Hưng Cung Hoàng Cung Hoàng Đế Lê Xuân (Lê Lự) 1522-1526 Thống Nguyên Hoa Dương Nhà Lê Trung hưng Miếu hiệu Thụy hiệu Tên húy Năm Niên hiệu Lăng Trang Tông Dụ Hoàng Đế Lê Duy Ninh 1533-1548 Nguyên Hoà Cảnh Lăng Trung Tông Vũ Hoàng Đế Lê Duy Huyên 1548-1556 Thuận Bình Diên Lăng Anh Tông Tuấn Hoàng Đế Lê Duy Bang 1556-1573 Thiên Hựu (1557) Chính Trị (1558-1571) Hồng Phúc (1572-1573) Bố Vệ Lăng Thế Tông Nghị Hoàng Đế Lê Duy Đàm 1573-1599 Gia Thái (1573-1577) Quang Hưng (1578-1599) ???? Kính Tông Huệ Hoàng Đế (Giản Hoàng Đế)[12] Lê Duy Tân 1600-1619 Thuận Đức (1600) Hoằng Định (1601-1619) Hoa Loan Lăng (Bố Vệ Lăng)[12] Thần Tông (lần 1) Uyên Hoàng Đế Lê Duy Kỳ 1619-1643 Vĩnh Tộ (1620-1628) Đức Long (1629-1634) Dương Hoà (1634-1643) Quần Ngọc Lăng Chân Tông Thuận Hoàng Đế Lê Duy Hựu 1643-1649 Phúc Thái Hoa Phố Lăng Thần Tông (lần 2) Uyên Hoàng Đế Lê Duy Kỳ 1649-1662 Khánh Đức (1649-1652) Thịnh Đức (1653-1657) Vĩnh Thọ (1658-1661) Vạn Khánh (1662) Quần Ngọc Lăng Huyền Tông Mục Hoàng Đế Lê Duy Vũ 1663-1671 Cảnh Trị Quả Thịnh Lăng Gia Tông Mỹ Hoàng Đế Lê Duy Cối (Lê Duy Khoái) 1672-1675 Dương Đức (1672-1673) Đức Nguyên (1674-1675) Phúc An Lăng Hy Tông Chương Hoàng Đế Lê Duy Cáp (Lê Duy Hiệp) 1675-1705 Vĩnh Trị (1678-1680) Chính Hoà (1680-1705) Phú Lăng Dụ Tông Hòa Hoàng Đế Lê Duy Đường 1706-1729 Vĩnh Thịnh (1706-1719) Bảo Thái (1720-1729) Cổ Đô Lăng, sau chuyển sang Kim Thạch Lăng Bị phế thành Hôn Đức Công Lê Duy Phường 1729-1732 Vĩnh Khánh Kim Lũ Thuần Tông Giản Hoàng Đế Lê Duy Tường 1732-1735 Long Đức Bình Ngô Lăng Ý Tông Huy Hoàng Đế Lê Duy Thận (Lê Duy Chấn) 1735-1740 Vĩnh Hựu Phù Lê Lăng Hiển Tông Lê Duy Diêu 1740-1786 Cảnh Hưng Bàn Thạch Lăng Mẫn Đế Lê Duy Khiêm[13] 1786-1788 Chiêu Thống Bàn Thạch Lăng
File đính kèm:
- tai_lieu_nha_hau_le.doc