Tài liệu Lê Thái Tổ (1428-1433 )

Ông tổ dựng nghiệp đầu tiên của họ Lê ở Lam Sơn Thanh Hóa là Lê Hối. Vốn là một người chất phác, hiền hậu, ít nói nhưng cụ lại là người hiểu biết sâu xa "có thể đoán biết sự việc từ lúc còn chưa hình thành". Lúc đầu gia đình cụ sống ở thôn Như áng, chuyên làm ruộng và sống khá phong lưu. Một hôm cụ đi dạo chơi trong rừng, thấy có rất nhiều chim tụ họp và bay lượn vòng quanh núi Lam Sơn. Biết đó là nơi "đất lành chim đậu", cụ liền dọn nhà đến ở đấy. Sau ba nǎm khai phá ruộng vườn, chǎm lo cày cấy, cơ nghiệp nhà cụ ngày càng phồn thịnh. Đến đời ông nội rồi đời cha của Lê Lợi cũng tiếp nối và phát triển được cơ nghiệp của tiền nhân. Người cha sinh ra Lê Lợi húy là Khoáng, là người có chí khí và hào hiệp, thường nuôi dưỡng tân khách, thương yêu dân chúng, chu cấp người nghèo, giúp kẻ hoạn nạn khó khǎn, vì thế cả vùng đều kính phục cụ. Lê Lợi sinh ngày mồng 6 tháng 8 nǎm ất Sửu (10 tháng 9 nǎm 1385) là con trai thứ ba và cũng là con út trong nhà. Ngay từ khi còn rất trẻ Lê Lợi đã tỏ ra là người thông minh dũng lược. Truyền thuyết kể rằng: Lớn lên Lê Lợi làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, được hồn sư ông mặc áo trắng hiển hiện chỉ cho ngôi huyệt phát "đế vương" ở động Chiêu Nghi. Sau đó một người phường chài là Lê Thận bắt được một lưỡi gươm cũ, khi đưa vào tay Lê Lợi thì thanh gươm không phải mài mà sáng như gươm mới. Trên thanh gươm có khắc hàng chữ triện, Lê Lợi biết là một thanh gươm quý. Hai ngày sau vợ Lê Lợi ra vườn hái rau lại bắt được một quả ấn báu cũng khắc mấy chữ lối triện, trên lưng quả ấn khắc tên họ Lê Lợi. Ngày sau nữa lại bắt được cái chuôi kiếm ở gốc cây đa, có khắc hình con rồng, con hổ và hai chữ "Thanh Thúy", đem lắp vào lưỡi kiếm đã bắt được thì vừa vặn không sai chút nào.

doc 9 trang cucpham 23/07/2022 6340
Bạn đang xem tài liệu "Tài liệu Lê Thái Tổ (1428-1433 )", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu Lê Thái Tổ (1428-1433 )

Tài liệu Lê Thái Tổ (1428-1433 )
Lê Thái Tổ (1428-1433 )
Niên hiệu: Thuận Thiên
Ông tổ dựng nghiệp đầu tiên của họ Lê ở Lam Sơn Thanh Hóa là Lê Hối. Vốn là một người chất phác, hiền hậu, ít nói nhưng cụ lại là người hiểu biết sâu xa "có thể đoán biết sự việc từ lúc còn chưa hình thành". Lúc đầu gia đình cụ sống ở thôn Như áng, chuyên làm ruộng và sống khá phong lưu. Một hôm cụ đi dạo chơi trong rừng, thấy có rất nhiều chim tụ họp và bay lượn vòng quanh núi Lam Sơn. Biết đó là nơi "đất lành chim đậu", cụ liền dọn nhà đến ở đấy. Sau ba nǎm khai phá ruộng vườn, chǎm lo cày cấy, cơ nghiệp nhà cụ ngày càng phồn thịnh. Đến đời ông nội rồi đời cha của Lê Lợi cũng tiếp nối và phát triển được cơ nghiệp của tiền nhân. Người cha sinh ra Lê Lợi húy là Khoáng, là người có chí khí và hào hiệp, thường nuôi dưỡng tân khách, thương yêu dân chúng, chu cấp người nghèo, giúp kẻ hoạn nạn khó khǎn, vì thế cả vùng đều kính phục cụ. Lê Lợi sinh ngày mồng 6 tháng 8 nǎm ất Sửu (10 tháng 9 nǎm 1385) là con trai thứ ba và cũng là con út trong nhà. Ngay từ khi còn rất trẻ Lê Lợi đã tỏ ra là người thông minh dũng lược. Truyền thuyết kể rằng: Lớn lên Lê Lợi làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, được hồn sư ông mặc áo trắng hiển hiện chỉ cho ngôi huyệt phát "đế vương" ở động Chiêu Nghi. Sau đó một người phường chài là Lê Thận bắt được một lưỡi gươm cũ, khi đưa vào tay Lê Lợi thì thanh gươm không phải mài mà sáng như gươm mới. Trên thanh gươm có khắc hàng chữ triện, Lê Lợi biết là một thanh gươm quý. Hai ngày sau vợ Lê Lợi ra vườn hái rau lại bắt được một quả ấn báu cũng khắc mấy chữ lối triện, trên lưng quả ấn khắc tên họ Lê Lợi. Ngày sau nữa lại bắt được cái chuôi kiếm ở gốc cây đa, có khắc hình con rồng, con hổ và hai chữ "Thanh Thúy", đem lắp vào lưỡi kiếm đã bắt được thì vừa vặn không sai chút nào.
Từ đó ông càng tin rằng vận nước đã được trao vào tay mình, càng chǎm chỉ dùi mài đọc sách và binh pháp, nuôi chí và chờ thời vận. Lúc đó quân Minh đã đánh bại cha con Hồ Quý Ly, bắt cha con họ Hồ đưa về Kim Lǎng, rồi đặt nước ta thành quận huyện. Lê Lợi ngầm có chí khôi phục non sông, nên hạ mình tôn người hiền, bỏ tiền của ra nuôi binh sĩ, chiêu nạp những anh hùng hào kiệt từ khắp nơi. Những hào kiệt thời ấy như: Lê Vǎn An, Lê Vǎn Linh, Bùi Quốc Hưng, Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú, Trịnh Vô, Vũ Uy, Lê Liễu và Lê Xa Lôi đều nối tiếp nhau quy phục, Lê Lợi kính cẩn đón tiếp, cùng bí mật mưu khởi nghĩa.
Mùa xuân nǎm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi cùng với những người đồng chí chính thức dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, truyền hịch đi khắp nước kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng dưới cờ khởi nghĩa đánh giặc cứu nước. Với lực lượng ban đầu không quá 2000 người, "cơm ǎn thì sớm tối không được hai bữa, áo mặc thì đông hè chỉ có một manh, khí giới thì thật tay không", phải đối địch với một quân đội đông đảo có trang bị đầy đủ của giặc, nghĩa quân nhiều lần bị vây khốn. Có lúc lương cạn hàng tuần, thủ lĩnh Lê Lợi phải cho giết cả voi chiến và ngựa của chính mình để nuôi quân. Có lần bị vây chặt, Lê Lai đã phải đóng giả Bình Định Vương Lê Lợi để mở đường cứu chúa... Song với lòng tự tin sắt đá vào vận mệnh của dân tộc, tin việc làm của mình là "thuận lòng trời", với sự hợp trí hợp mưu của nhân tài cả nước, nghĩa quân đã vượt qua mọi thứ thách để duy trì và mở rộng địa bàn. Sau 10 nǎm chiến đấu gian khổ "nằm gai nếm mật", bằng lối đánh "lấy ít địch nhiều", cả vây thành và diệt viện, bằng những chiến thắng quyết định ở Chi Lǎng - Xương Giang, Cần Trạm tiêu diệt hàng chục vạn viện binh giặc, cuối cùng quân đội Lam Sơn đã buộc giặc Minh trong các thành Đông Quan, Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh phải đầu hàng.
Ngày 29 tháng 12 nǎm 1427, bại binh giặc bắt đầu rút, đến ngày 3 tháng 1 nǎm Mậu Thân (1428) những bóng dáng cuối cùng của quân Minh đã bị quét sạch khỏi bờ cõi.
Về phía nhà Minh khi đó, ngoài tác động của những trận đánh của nghĩa quân Lam Sơn, phải kể đến một quyết định tỉnh táo của vua Minh khi ông ta nói với quần thần rằng: "Những kẻ bàn tán, không hiểu ý muốn dứt việc can qua, tất cho rằng nghe theo thỉnh cầu của An Nam là không oai hùng. Nhưng nếu được nhân dân yên lành, thì trẫm không e ngại những lời đó?". Thế là sau hai mươi nǎm phải sống dưới ách đô hộ ngoại bang, đất nước lại giành được độc lập. Do sức ép của nhà Minh và cũng là sách lược mềm dẻo của lãnh tụ Lam Sơn, trên danh nghĩa Lê Lợi vẫn phải xin cầu phong cho con cháu họ Trần là Trần Cảo làm vua. Nhưng nǎm Mậu Thân (1428), Trần Cảo -tự cho mình không có công trong cuộc giải phóng đất nước mà lại giữ ngôi vua vẫn thường áy náy không yên, bèn cưỡi thuyền ra biển, chạy vào châu Ngọc Ma (Thanh Hóa). Quân của Lê Lợi đuổi kịp dẫn trở về, cho uống thuốc độc chết, triều đình nhà Lê sai làm tang lễ rất hậu theo nghi lễ một ông vua.
Ngày 15 tháng 4 nǎm Mậu Thân (1428) Lê Lợi chính thức lên ngôi vua tại điện Kính Thiên, thành Đông Đô (tức Hà Nội), xưng là "Thuận thiên thừa vận Duệ vǎn Anh Vũ đại vương", đặt tên nước là Đại Việt, đổi niên hiệu, đại xá thiên hạ, ban bài cáo Bình Ngô. Khi đó ông đã 43 tuổi Đây là sự mờ đầu một thời kỳ độc lập, lâu dài nhất trong lịch sử nước ta. Để không gây sự cǎng thẳng với nhà Minh, Lê Lợi chưa xưng đế mà chỉ tự xưng vương.
Mặc dù chỉ ở ngôi ngắn ngủi được có 6 nǎm nhưng những việc làm của ông vua này có ý nghĩa đặt nền móng vững chắc cho cả một triều đại và nền độc lập phồn vinh của quốc gia Đại Việt. Việc làm đầu tiên của Lê Thái Tổ là bàn định luật lệnh. Nhà vua ra lệnh cho các quan: Tư không, Tư đồ, Tư mã, Thiếu úy, Hành khiển bàn định luật lệnh trị quân dân, cho người làm ở lộ biết mà trị dân, người làm tướng biết mà trị quân, để rǎn dạy cho quân dân đều biết là phép tắc". Nhờ cố gắng đó, hai nǎm sau (1430) Lê Thái Tổ đã cho ban hành những điều luật đầu tiên của triều đại mình.
Một công việc khác không thề thiếu được đối với bất kỳ một triều đại mới lên sau hàng chục nǎm chiến đấu gian khổ đề giành độc lập và lập nên vương triều là đại hội các tướng và các quan vǎn võ để định công ban thưởng, theo công lao cao thấp mà định thú bậc, ban biểu ngạch công thần. Đáng chú ý là trong đợt phong này, Nguyễn Trãi được làm quan Phục hầu, Trần Nguyên Hãn làm Tả tướng quốc và Phạm Vǎn Xảo làm Thái bảo, các ông này đều được cho lấy họ vua. Từ những đơn vị hành chính theo chế độ quận huyện của nhà Minh, nhà Lê lại chia đơn vị hành chính nước ta thành 5 đạo, đặt các chức Vệ quân, Tổng quản, Hành khiển... ở xã đặt xã quan. Bộ máy hành chính này sẽ ngày càng được hoàn chỉnh vào các đời vua sau, nó thực sự giúp cho việc quản lý và điều hành đất nước. Một đất nước sống chủ yếu bằng nông nghiệp, việc phục hồi phát triển nông nghiệp cũng được Lê Thái Tổ đặc biệt quan tâm. Ngay từ nǎm đầu lên ngôi, ông đã cho kiểm kê hộ khẩu, làm sổ điền, sổ hộ, đặt cơ sở để tiến hành chế độ quân điền.
Đề tuyển chọn nhân tài và củng cố bộ máy cai trị, nhà Lê không chỉ quan tâm đến việc cầu hiền bằng cách tiến cử mà còn đặt ra các khoa thi. Dưới thời Lê Thái Tổ đã bắt đầu mở các khoa thi để lựa chọn những nhân tài. Vua Lê Thái Tổ còn đặc biệt quan tâm đến việc bình định và củng cố miền biên cương phía Bắc và Tây Bắc. Nhà vua từng đích thân cầm quân tiến thẳng vào tận sào huyệt một lực lượng chống đối, đặt đất đó thành châu huyện và ghi vào bản đồ quốc gia. Về mặt đối ngoại, Lê Thái Tổ nhiều lần cử các đoàn sứ bộ sang Trung Quốc để đặt mối bang giao bình thường với nhà Minh, khéo léo giải quyết những sách nhiễu của nhà Minh về việc lập con cháu nhà Trần và vấn đề tù binh chiến tranh...
Sau khi vua trao ấn báu truyền ngôi cho Hoàng thái tử, ngày 22 tháng 8 nǎm Quý Sửu (1433) nhà vua bǎng ở Tẩm điện, hưởng thọ 49 tuổi. Vua Lê Thái Tổ có hai người con trai là Quận Ai Vương Tư Tề là con của Trịnh Thần Phi và Hoàng thái tử Nguyên Long là con của Phạm Thị Ngọc Trần. Nhà vua truyền ngôi cho con thứ là Hoàng thái tử Nguyên Long.
Lê Thái Tông (1434-1442)
Niên hiệu:
- Thiệu Bình (1434- 1439)
- Đại Bảo (1439-1442)
Vua Lê Thái Tông tên thật là Lê Nguyên Long, Ông sinh nǎm Mão (1423) và lên ngôi khi mới 11 tuổi (1433). Từ nhỏ Lê Nguyên Long đã theo cha mẹ và nghĩa quân trên các bước đường chinh chiến. Ông có được học hành, song không nhiều lắm, quen nô đùa với bọn trẻ nhỏ, thích những trò cưỡi ngựa bắn cung. Tuy vậy tính cách trẻ con này không kéo dài bao lâu. Lê Nguyên Long dần dần đã ý thức được vai trò làm vua của mình. Cái nề nếp vương giả, triều nghi, dần dần đưa ông trở lại với tư cách một người đứng đầu thiên hạ. 
Triều đình lúc đó khá lộn xộn, mọi việc đều do Lê Sát (một võ tướng có công lớn trong sự nghiệp bình Ngô phục quốc) chỉ huy mọi việc. Lê Sát phải giúp đỡ vua nhỏ nên ông rất quan tâm đến hành vi cử chỉ của vua Lê Thái Tông, nhiều khi cũng cậy công to, tuổi lớn nên tỏ ra nghiêm khắc thẳng thắn lấn át nhà vua gây cho vua khó chịu. Một số viên quan đoán biết được ý vua, liền hạch tội Lê Sát  đuổi về quê, rồi ép ông tự tử.  
Khi lớn lên vua Thái Tông đã xông pha trận mạc, chỉ đạo các tướng lĩnh đánh  thắng nhiều trận lớn. 
Đến nǎm ông 20 tuổi nhân chuyến đi công cán miền đông, lúc trở về đi cùng với Nguyễn Thị Lộ (vợ của Nguyễn Trãi), đến Lệ Chi Viên - tỉnh Bắc Ninh vua nghỉ lại thức đêm trò chuyện cùng Nguyễn Thị Lộ và chết đột ngột lúc nửa đêm. Nguyễn Thị Lộ bị kết tội giết vua, sau đó, bị bắt giam cùng Nguyễn Trãi và bị chu di tam tộc.
Vua Lê Thái Tông trị vì trong 9 nǎm, khi mất mới có 20 tuổi.
Lê Nhân Tông (1443-1459)
Niên hiệu:
- Đại Hoà (1443-1453)
- Diên Ninh (1454-1459)
Vua Lê Nhân Tông tên thật là Lê Bang Cơ con của vua Thái Tông và bà Nguyễn Thị Anh. Sau khi vua Thái Tông mất Bang Cơ được ẵm lên ngai vàng từ khi còn chưa biết nói. Mẹ của Bang Cơ phải buông rèm coi việc nước giúp con trai. Lấy danh nghĩa Hoàng đế của con, dựa vào sự ngấm ngầm bày vẽ của những người thân tín, Nguyễn Thị Anh thực sự điều hành việc nước, thâu tóm mọi quyền hành. Bà có những nǎng lực nhất định tránh cho triều chính khỏi ngả nghiêng chao đảo. 
Thời kỳ này triều đình có một số đại thần uy tín giúp đỡ như: Trịnh Khả; Lê Nhân Thụ, Đinh Liệt... nên tình hình có vẻ ổn định. Các ông đã tiến hành những cuộc tiến quân đi đánh Chiê ... ước ta, rất hiếm có giai đoạn mà ở các làng, các tỉnh lại có những gia đình đạt thành tích cao trong giáo dục như dưới thời Lê Thánh Tông.
Vua Lê Thánh Tông trị vì 38 nǎm, ông mất tháng giêng nǎm 1497, thọ 56 tuổi
Lê Hiến Tông (1497-1504)
Niên hiệu: Cảnh Thống
Vua Hiến Tông tên huý là Tranh và tên huý khác là Huy, là con trưởng của Thánh Tông sinh ngày 10 tháng 8 nǎm Tân Tỵ (1461). Nǎm Hiến Tông 37 tuổi mới được cha truyền ngôi, trong thời gian 7 nǎm cầm quyền chính ông không có gì sáng tạo so với đời vua trước. Nhưng Hiến Tông là một ông vua thông minh trí tuệ hơn người mà lại nhân từ ôn hoà. Cách cai trị của ông nhàn hạ ung dung, chưa từng lộ ra lời nói sắc mặt tức giận mà thiên hạ rǎm rắp theo lệnh.
Ông là người chú trọng chǎm sóc bảo vệ đê điều, trông coi việc nông trang làm ruộng, trồng dâu nuôi tằm. Ông chú ý đến giáo dục quan lại chống thói quan liêu và tham nhũng.
Vua Hiến Tông bị bệnh nặng và mất ngày 23 tháng 5 nǎm Giáp Tý (1504) thọ 44 tuổi. Ông sinh được 6 Hoàng tử. 
Lê Túc Tông (1504)
Niên hiệu: Thái Trinh
Kế vị vua Hiến Tông là người con thứ ba của ông tên là Thuần nǎm đó mới 17 tuổi. Ông là người ham học, thân người hiền, vui điều thiện, đáng là vị vua giỏi nghiệp thái bình. Nhưng mấy tháng sau khi lên ngôi ông bị ốm nặng. Ông mất ngày 7 tháng 12 nǎm Giáp Tý (1504), làm vua được 6 tháng. Trước khi mất ông còn dặn đưa người con trai thứ hai của Hiến Tông là Tuấn lên nối ngôi.
Lê Uy Mục (1505-1509)
Niên Hiệu: Đoan Khánh
Vua Uy Mục, có tên huý  là Tuấn và tên huý khác là Huyên là con vua Hiến Tông được em là Lê Túc Tông truyền ngôi cho. Vua Uy Mục ǎn chơi vô độ, tàn bạo giết hại nhiều người vô tội. Quyền hành trong triều rơi vào tay họ ngoại của Uy Mục đều chuyên cậy quyền thế, dìm hãm thần liêu, có khi vì tự ý mà giết hại sinh dân, có khi dùng ngón kín mà yêu sách tiền của; phàm súc vật hoa mầu của nhân dân  đều cướp cả; nhà dân ai có đồ vật  lạ quý đều đánh dấu chữ vào để lấy. Uy Mục còn ra lệnh cho giết hết những người Chiêm bị bắt làm gia nô trong các điền trang của các thế gia, công thần.
Sự tàn bạo quá đáng của Uy Mục đã gây nên một làn sóng bất bình trong dân chúng và trong hàng ngũ quan lại, dòng dõi họ Lê. Tháng 12 nǎm Kỷ Tỵ (1509)  Uy Mục bị những người nổi dậy do Giản Tu Công Oanh cầm đầu ( vua Lê tương Dực sau này) bức tử chết, ở ngôi được 5 nǎm thọ 22 tuổi. 
Lê Tương Dực (1510-1516)
Niên hiệu: Hồng Thuận
Lê Tương Dực tên huý là Oánh lại có tên nữa là Trừ, là cháu nội Lê Thánh Tông, Dưới thời vua Hiến Tông ông được phong là Giản Tu Công. Đến khi Uy Mục giết hại công thần và người tôn thất, ông cũng bị bắt giam, nhưng trốn thoát chạy vào Tây Đô (Thanh Hoá). Tháng 12 nǎm 1509 ông cùng Nguyễn Vǎn Lǎng và các quần thần đem quân ra Đông kinh bức tử Uy Mục rồi tự lập làm vua.
Đất nước ngày càng hỗn loạn. Các cuộc nổi dậy của các lực lượng phong kiến địa phương ngày càng lan rộng. Bản thân Tương Dực cũng lao vào con đường ǎn chơi truỵ lạc. 
Chẳng thế mà tháng Giêng nǎm Quý Dậu (1513) chánh sứ nhà Minh là Trần Nhược Thuỷ và Phó sứ là Phạm Hy Tǎng sang phong cho Tương Dực làm An Nam quốc vương đã thấy Tương Dực mà nhận xét: "Quốc vương An Nam mặt thì đẹp mà người lệch, tính thích dâm, là vua lợn, loạn vong sẽ không bao lâu!".
Quả vậy, tháng 5 nǎm Giáp Tuất (1514) vua nghe lời tâu của Hiệu úy Hữu Vĩnh, giết chết 15 vương công, cho gọi các cung nhân của Mẫn Lệ công (Vua Uy Mục) và triều trước vào để gian dâm. Nǎm Bính Tý (1516) Vua cho đắp thành mấy nghìn trượng, bao vây cả điện Tường Quang, quán Trấn Vũ, chùa Thiên Hoa... Chắn ngang sông Tô Lịch... Lại làm điện hơn trǎm nóc, đóng thuyền chiến, sai bọn nữ sử cởi truồng chèo thuyền ở Hồ Tây cùng Vua chơi đùa, lấy làm thích thú.
Bấy giờ, trước tình hình đó, các thế lực phong kiến địa phương như Trần Cảo nổi lên. Trịnh Duy Sản nhiều lần can ngǎn, Vua không nghe lại còn đem Sản ra đánh bằng trượng. Duy Sản bàn cùng với một số quần thần khác như Lê Quảng Độ, Trịnh Chí Sâm mưu việc phế lập. Tháng 4 nǎm Bính Tý (1516), Trịnh Duy Sản sai người đâm chết Tương Dực, đem thiêu xác. Khâm Đức Hoàng hậu cũng tự nhảy vào lửa mà chết. Quân sĩ đem quan tài về chôn ở lǎng Ngự Thiên, giáng Tương Dực xuống làm Linh ẩn vương.
Như vậy Tương Dực ở ngôi được 7 nǎm, thọ 24 tuổi. Sử thần bàn rằng: Linh ẩn vương gian dâm với vợ lẽ của cha, để tang cha mẹ ít, mượn tên của anh để cướp nước, xa hoa dâm dục quá độ, hình phạt thuế khóa nặng nề, giết hết các thân vương, giặc cướp nổi dậy khắp nơi, đương thời gọi là vua lợn, điềm nguy vong đã hiện ra vậy!
Lê Chiêu Tông (1516-1522)
Niên hiệu: Quang Thiệu
Vua húy là Y, lại có tên nữa là Huệ, cháu bốn đời của Lê Thánh Tông, cháu đích tôn của Kiến vương Tân, con trưởng của Cẩm giang vương Sùng. Mẹ là Hoàng hậu Trịnh Thị Loan, người xã Phi Bạo, huyện Thanh Chương (Nghệ An). Ông sinh ngày 4 tháng 10 nǎm Bính Dần (1506). Khi Tương Dực đế bị giết nǎm Bính Tý (1516) không có con nối, quan đại thần là Lê Nghĩa Chiêu, Trịnh Duy Sản đón lập lên làm vua, khi đó ông mới 11 tuổi Nhưng khi đó kinh thành bị tàn phá, Trịnh Duy Sản phải rước vua vào Tây Kinh. Trần Cảo thấy kinh thành bỏ không đã chiếm lấy và tự xưng làm vua. Thấy vậy triều đình sai Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoằng Dụ, Trịnh Tuy... Vậy đánh Trần Cảo. Trần Cảo phải chạy lên đất Lạng Nguyên (Lạng Sơn).
Triều Lê sau khi dẹp tan được loạn Trần Cảo thì nội bộ lại càng lục đục, đánh giết lẫn nhau. An Hòa hầu Nguyễn Hoàng Dụ và Vĩnh Hưng bá Trịnh Tuy đem quân đánh nhau liên miên. Dân chúng khổ sở cảnh loạn lạc, đầu rơi máu chảy: "Giặc bên ngoài chưa yên, các quyền thần đánh lẫn nhau, giết nhau dưới cửa khuyết, máu giây đầy chốn kinh sư, mặt trời vàng tối, vận nước ngày một suy".
Trước tình hình đó, Nho giáo ngày một suy vi, nhường chỗ cho Phật giáo và Đạo giáo cùng các thú ma thuật ngày càng phát triển.
Trong số các thế lực phò lập vua, mỗi người đều có những mưu đồ riêng. Càng về sau bằng tài nǎng quân sự nổi bật và sự khôn khéo thâu tóm quyền hành, Mạc Đǎng Dung đã ngày càng trở thành một n hân vật cột trụ trong triều. Vua Lê Chiêu Tông phải tự thân hành đến phủ đệ của Mạc Đǎng Dung gia phong cho ông làm Thái phó... Quyền uy của Mạc Đǎng Dung ngày một lớn, người người đều hướng về họ Mạc. Đǎng Dung cho con gái nuôi vào hầu vua thực ra để dò xét coi giữ. Con trưởng của Đǎng Dung là Đǎng Doanh làm chức Dục Mỹ hầu trông coi điện Kim Quang. Từ đó Đǎng Dung đi bộ thì che lọng phượng dát vàng, đi thủy thì dùng thuyền rồng dây kéo, ra vào cung cấm như đi vào chỗ không người, không kiêng sợ gì...
Trước tình cảnh ấy, vua Chiêu Tông mưu ngầm với Trịnh Tuy tìm cách triệt hạ thế lực của họ Mạc. Kế hoạch bại lộ, vua bỏ chạy khỏi kinh thành. Mạc Đǎng Dung bèn cùng với các quần thần khác lập em của Chiêu Tông tên là Xuân lên ngôi vào ngày 1 tháng 8 nǎm Nhâm Ngọ (1522). Chiêu Tông thì bị giáng xuống làm Đà Dương vương rồi bị giết. Như vậy Chiêu Tông ở ngôi được 7 nǎm, thọ 26 tuổi.
Lê Cung Hoàng (1522-1527)
Niên hiệu: Thống Nguyên
Vua mới có tên là Xuân, còn có tên nữa là Khánh, cháu bốn đời của Thánh Tông, là em cùng mẹ với Chiêu Tông, sinh ngày 26 tháng 7 nǎm Đinh Mão (1507). Khi Chiêu Tông chạy khỏi hoàng cung, Mạc Đǎng Dung lập ông lên làm vua, lúc đó 16 tuổi. Vì sợ Chiêu Tông ở ngoài hiệu triệu binh mã về đánh nên Mạc Đǎng Dung không dám đóng tại kinh thành mà đón Hoàng đệ Xuân về Gia Phúc (Hải Dương) và chuyển hết của báu trong thành về đấy, phong quan tiến tước cho các quan. Sau khi đánh bại các cánh quân Cần vương của Chiêu Tông, mùa xuân nǎm Quý Mùi (1523) Đǎng Dung đưa vua Cung hoàng về đóng ở hành dinh Bồ Dề, cho các quan vào chầu. Nǎm đó, triều đình vẫn cho mở khoa thi hương, thi hội ở bãi giữa sông Nhị. Vua ra đầu đề "Về đạo làm vua làm thầy". Nhưng bất chấp đạo làm tôi, tháng 7 nǎm đó, Đǎng Dung dùng chiếu lệnh của Cung đế, phế bỏ vắng mặt Chiêu Tông xuống tước Đà Dương vương. Nǎm sau, Giáp Thân (1524) Đǎng Dung tự mình thǎng lên tước Bình Chương quân quốc trọng sự Thái phó Nhân quốc công. Tháng 10 nǎm Â't Dậu (1525) Đǎng Dung tự làm đô tướng dẫn tất cả thủy và lục quân vào đánh Thanh Hóa. Vua Chiêu Tông bị bắt đưa về kinh sư, và bị giết vào tháng 12 nǎm Bính Tuất (1526).
Sau sự kiện bi thảm đó, Đǎng Dung rút lui về Cổ Trai nhưng trong thực tế vẫn chế ngự triều đình. Nǎm Đinh Hợi (1527), Đǎng Dung tự thǎng tước Thái sư An Hưng vương, gia thêm cửu tứ. Tháng 4 nǎm Đinh Hợi (1527), Cung Hoàng sai Trùng dương hầu Vũ Hữu, Lan xuyên bá Phan Đình Tá và Trung sứ Đỗ Hiếu Đễ cầm cờ mao tiết mang kim sách và mũ áo ô lọng, đại ngọc, kiệu tía, quạt vẽ, tán tía đến làng Cổ Trai, huyện nghi Dương tấn phong Mạc Đǎng Dung làm An Hưng vương. Đǎng Dung đón tiếp sứ bộ của nhà vua, ở bến đò An Tháp huyện Tân Minh (Tiên Lãng, Kiến An ngày nay). Vua còn tặng Đǎng Dung bài thơ "Chu công giúp Thành Vương" có ý khuyên Đǎng Dung hãy giúp vua và triều đình theo gương Chu công đời xưa.
Mặc dù được Vua ân sủng hậu đãi và giao phó trọng trách, Mạc Đǎng Dung vẫn không chịu dừng lại ở tước vương, mà vẫn kiên quyết chớp thời cơ giành ngôi đế cho họ Mạc. Ngày 15 tháng 6 nǎm Đinh Hợi (1527), Mạc Đǎng Dung từ Cổ Trai vào kinh bắt Vua phải nhường ngôi, giáng vua Lê xuống làm Cung vương, bắt giam Vua cùng với Hoàng thái hậu ở cung Tây Nội, sau đó vài tháng buộc Thái hậu và Cung vương phái tự tử. Trước khi chết, Thái hậu khấn trời rằng: "Đǎng Dung là kẻ bề tôi, manh tâm cướp ngôi, lại giết mẹ con ta, con cháu mày ngày sau cũng thế". Đǎng Dung sai đem xác hai mẹ con nhà vua bày ra quán Bắc Sơn, rồi đem về chôn ở lǎng Hoa Dương huyện Ngự Thiên (nay thuộc xã Mỹ Xá, huyện Hưng Hà, Thái Bình) theo nghi lễ của Thiên tử và Hoàng hậu. Như vậy là Cung Hoàng ở ngôi được đúng 5 nǎm, thọ 21 tuổi.
Nhận xét về ông vua này, sứ thần triều Lê đã viết: "Lúc ấy vận nước đã suy, lòng người đã lìa, tài vua lại vào hạng kém, có thể dẹp yên sao được".
Như vậy là triều Lê kể từ Lê Thái Tổ lên ngôi (1428) đến Cung Hoàng (1527) gồm 10 đời vua, cả thảy đúng 100 nǎm. Nếu tính cả thời gian Lê Lợi dấy quân xưng là Bình Định vương nǎm Mậu Tuất (1418) cộng là 110 nǎm. Đây là thời kỳ các vua Lê nắm được trọn quyền cai trị đất nước.

File đính kèm:

  • doctai_lieu_le_thai_to_1428_1433.doc