Tài liệu Đông kinh Nghĩa thục

Năm 1905, mở phân khoa chuyên về khoa học kinh doanh ngoài các môn có sẵn: kinh tế, chính trị, luật và văn chương. Khánh Ứng Nghĩa thục trở thành một Đại học tư lập đầu tiên khá hoàn chỉnh trên đất Nhật, danh tiếng vang xa, góp phần làm cho sự nghiệp Duy Tân - học tập phương Tây của Nhật Bản thành công, chuyển mình vươn dậy cùng văn minh, khoa học, khiến các nước phương Tây phải dè chừng.

Vào thời điểm đó, xã hội Việt Nam bắt đầu diễn ra những biến đổi rất quan trọng dưới tác động của công cuộc thực dân hoá của Pháp, một "nền thực dân nước đôi" - “colonisation ambigu” theo như cách nói của hai nhà Viêt Nam học người Pháp P. Brocheux và D.Hémery. Cùng với những chuyển biến trong kinh tế - xã hội, sự tiếp xúc và tác động của các trào lưu dân chủ tư sản từ ngoài dội vào đã tạo tiền đề cho sự xuất hiện khuynh hướng duy tân, cải cách ở Việt Nam mà biểu hiện tập trung nhất là phong trào Duy tân (1905-1908). Cuộc vận động Duy tân diễn ra trên nhiều lĩnh vực: từ chấn hưng thực nghiệp, phát triển kinh tế đến mở mang văn hóa, đổi mới giáo dục, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu trong lối sống. Khởi phát từ Quảng Nam, phong trào Duy tân đã nhanh chóng lan rộng ra cả nước với sự xuất hiện hàng loạt công ty, hội buôn như Hợp thương Diên Phong ở Quảng Nam, công ty Liên Thành buôn nước mắm ở Phan Thiết, Triêu Dương thương quán ở Nghệ An Bên cạnh đó, hoạt động mở trường dạy học theo tinh thần giáo dục phương Tây cũng diễn ra khá sôi nổi với sự tham gia tích cực của các sĩ phu tiến bộ. Hàng loạt trường học duy tân xuất hiện ở Trung kỳ. Tại các trường học, ngoài chữ Quốc ngữ và chữ Pháp, lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục Việt Nam, học sinh được học toán, địa lý và các môn khoa học tự nhiên, thể dục

Năm 1906, Phan Chu Trinh tìm đường sang Nhật để chứng kiến tận mắt bài học Duy Tân, thăm Khánh Ứng Nghĩa thục, thăm các học đường và khảo sát những công việc chính trị, giáo dục của Nhật Bản. Phan Bội Châu nhiều lần nói: “Noi gương chí sĩ Nhật là Phúc Trạch Dụ (Fukuzawa) đã mở Khánh Ứng Nghĩa thục”

 

doc 10 trang cucpham 22/07/2022 7180
Bạn đang xem tài liệu "Tài liệu Đông kinh Nghĩa thục", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu Đông kinh Nghĩa thục

Tài liệu Đông kinh Nghĩa thục
Nhân kỉ niệm 100 năm Đông Kinh Nghĩa Thục (1907-2007) đã có nhiều công trình, hội thảo khoa học nghiên cứu về, trong nội dung bài viết, xin nếu lên một số khái lược và nhận định về việc cải cách giáo dục trong trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
I. NGUỒN GỐC VÀ SỰ HÌNH THÀNH CỦA “ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC”:
Theo giáo sư Chương Thâu, nguyên thủy của từ “nghĩa thục”(public school) vốn từ nước Anh, và do học giả uyên bác Nhật Bản thời Minh Trị là Fukuzawa Ykichi (1835-1901) - người đã tiếp thu tư tưởng tự do phương Tây - năm 1868 lập ra ở Nhật Bản trường “Khánh Ứng Nghĩa thục” có ý lột tả tinh thần “public school” của người Anh, bao gồm bốn tính chất quan trọng, góp phần làm rạng danh cho người Nhật. Đó là tính tự cường, ý chí độc lập, óc tháo vát và lòng tự nguyện đóng góp vào các việc công ích, công thiện. 
Trường có lớp tiểu học, lớp trung học, dạy các học viên lớn tuổi, rồi các học viên đó lại dạy cho các học viên nhỏ tuổi hơn. Năm 1890 với sự cộng tác của một số giáo sư Đại học Harvard (Mỹ), trường mở thêm các lớp đại học và các lớp học ban đêm chuyên dạy các môn thương mại. 
Năm 1905, mở phân khoa chuyên về khoa học kinh doanh ngoài các môn có sẵn: kinh tế, chính trị, luật và văn chương. Khánh Ứng Nghĩa thục trở thành một Đại học tư lập đầu tiên khá hoàn chỉnh trên đất Nhật, danh tiếng vang xa, góp phần làm cho sự nghiệp Duy Tân - học tập phương Tây của Nhật Bản thành công, chuyển mình vươn dậy cùng văn minh, khoa học, khiến các nước phương Tây phải dè chừng.
Vào thời điểm đó, xã hội Việt Nam bắt đầu diễn ra những biến đổi rất quan trọng dưới tác động của công cuộc thực dân hoá của Pháp, một "nền thực dân nước đôi" - “colonisation ambiguë” theo như cách nói của hai nhà Viêt Nam học người Pháp P. Brocheux và D.Hémery. Cùng với những chuyển biến trong kinh tế - xã hội, sự tiếp xúc và tác động của các trào lưu dân chủ tư sản từ ngoài dội vào đã tạo tiền đề cho sự xuất hiện khuynh hướng duy tân, cải cách ở Việt Nam mà biểu hiện tập trung nhất là phong trào Duy tân (1905-1908). Cuộc vận động Duy tân diễn ra trên nhiều lĩnh vực: từ chấn hưng thực nghiệp, phát triển kinh tế đến mở mang văn hóa, đổi mới giáo dục, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu trong lối sống. Khởi phát từ Quảng Nam, phong trào Duy tân đã nhanh chóng lan rộng ra cả nước với sự xuất hiện hàng loạt công ty, hội buôn như Hợp thương Diên Phong ở Quảng Nam, công ty Liên Thành buôn nước mắm ở Phan Thiết, Triêu Dương thương quán ở Nghệ An Bên cạnh đó, hoạt động mở trường dạy học theo tinh thần giáo dục phương Tây cũng diễn ra khá sôi nổi với sự tham gia tích cực của các sĩ phu tiến bộ. Hàng loạt trường học duy tân xuất hiện ở Trung kỳ. Tại các trường học, ngoài chữ Quốc ngữ và chữ Pháp, lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục Việt Nam, học sinh được học toán, địa lý và các môn khoa học tự nhiên, thể dục
Năm 1906, Phan Chu Trinh tìm đường sang Nhật để chứng kiến tận mắt bài học Duy Tân, thăm Khánh Ứng Nghĩa thục, thăm các học đường và khảo sát những công việc chính trị, giáo dục của Nhật Bản. Phan Bội Châu nhiều lần nói: “Noi gương chí sĩ Nhật là Phúc Trạch Dụ (Fukuzawa) đã mở Khánh Ứng Nghĩa thục”
Đông Kinh Nghĩa thục là trường học do các sĩ phu Việt Nam lập ở Hà Nội năm 1907, phỏng theo Khánh Ứng Nghĩa thục. Không ngờ người Việt hưởng ứng “Nghĩa thục” nhanh như gió, các trường “Nghĩa thục”(public school) mở ra nhiều tỉnh trên đất nước ta. 
Đông Kinh Nghĩa thục do các sĩ phu cùng chí hướng với Phan Bội Châu như: Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Lê Đại, Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Vũ Hoành, Nguyễn Hữu Cầu mở tại số 4 và số 10, Hàng Đào, Hà Nội. Mục đích của Đông Kinh Nghĩa thục là khai trí cho dân, mở những lớp học do người hảo tâm đóng góp, học viên không phải nộp tiền, nhằm bồi dưỡng ý chí tự lập, tự cường dân tộc, duy tân, tiến thủ, truyền bá một nền tư tưởng học thuật mới, và nếp sống văn minh, tiến bộ, cải tổ giáo dục theo Tây phương tới mọi người dân. 
II. NHỮNG NỘI DUNG CẢI CÁCH CỦA “ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC” :
Đông Kinh Nghĩa Thục được tổ chức thành 04 ban công tác có quan hệ mật thiết với nhau để duy trì sự hoạt động đều đặn : 
 1. Ban giáo dục: lo việc giảng dạy, học tập và chiêu sinh. 
 2. Ban cổ động: có nhiệm vụ tuyên truyền ảnh hưởng của Trường ra ngoài quần chúng. Hình thức hoạt động chủ yếu của ban là các buổi diễn thuyết. 
 3. Ban trước tác: chuyên lo việc biên soạn tài liệu học tập cho học sinh và các tài liệu tuyên truyền. 
 4. Ban tài chính: lo các khoản thu chi của nhà trường. 
Nội dung hoạt động của Đông Kinh Nghĩa Thục rất phong phú 
- Về văn hoá giáo dục: chương trình hoạt động của nhà trường tập trung chống tư tưởng phong kiến thối nát, thực hiện cuộc cải cách tư tưởng văn hoá, xã hội. Trước hết là chống cựu học và hủ nho. Chống chữ Hán và khoa cử. Việc đề cao chữ Quốc ngữ và học những kiến thức mới được đẩy mạnh. Truyền thống lịch sử và lòng yêu nước đặc biệt được chú trọng. 
 - Về giáo dục chuyên môn: ông Phan Châu Trinh đặc biệt đề cao việc học nghề cho giỏi.
 - Về mặt tư tưởng xã hội: thuyết “thiên mệnh” của Nho giáo bị đả phá. Lên án những phong, tục tập quán lạc hậu
Đông Kinh Nghĩa thục bỏ hẳn Tứ Thư, Ngũ Kinh, dạy các môn khoa học, toán, vệ sinh, sinh vật, chữ Pháp, chữ Hán, chữ Quốc Ngữ theo cách mới, nhà trường tự soạn những bài học sử, địa, luân lý ngắn gọn, dễ hiểu, khơi mở bầu nhiệt huyết, sống vì đại nghĩa. Nam quốc vĩ nhân truyện có lời tựa: “Rồi đây, khí thiêng non nước hun đúc nên người giữa thời buổi gió Âu mưa Mỹ này, biết đâu sẽ có kẻ vì Tổ quốc mà quét mù, vén mây, khai thác hắn, cho nước nhà một bầu trời lẫy lừng”. 
Sách của Đông Kinh Nghĩa thục viết bồi dưỡng kiến thức cho dân về xã hội, pháp luật, thuế khóa, giao thông, cảnh sát, tôn giáo, vệ sinh, sức khỏe, khoa học, buôn bán, thương giao Đông Kinh Nghĩa thục thường xuyên tổ chức các cuộc diễn thuyết và bình văn “người đông như hội, khách đến như mưa”. Các bài giảng, diễn thuyết thường hướng dẫn bài trừ tệ nạn nghiện rượu, ma chay, cưới xin cổ hủ, mê tín dị đoan, khuyến học, chấn hưng công thương nghiệp, truyền bá tư tưởng dân chủ, công bằng, bác ái 
Đông Kinh Nghĩa thục tấn công vào sự ngu dốt, yếu kém của chế độ cũ, đả phá lối học vẹt, sáo rỗng, giả dối, giáo điều, học để làm quan, Đông Kinh Nghĩa thục đề cao chữ Quốc ngữ và lối học mới Thức tỉnh dân học để mở hàng, xưởng thợ, bán buôn, đóng tàu ra biển lớn, ăn ở vệ sinh, khoa học, văn minh
Đông Kinh nghĩa thục đã tấn công nền giáo dục phong kiến không phù hợp với bước tiến của xã hội, chỉ có thể đào tạo những con người “không đem lại lợi ích quốc gia, xã hội cho nhân loại cả”
Chống lại nền cựu học để xây dựng một nền giáo dục “phổ cập”, “hợp với tôn chỉ học thuật”, đạt được ba điều: “một là học vệ sinh” để cho thân thể khoẻ mạnh, “hai là học trị sinh” để chăm lo cho cuộc sống ăn, ở, mặc; “ba là học làm người, làm quốc dân”7 Nền giáo dục mới của Đông Kinh nghĩa thục được xây dựng theo các nguyên tắc nhân bản, dân tộc, hiện đại, tập trung vào những điểm chủ yếu:
Thứ nhất, phải học chữ quốc ngữ.
Trong “Bài hát khuyên học chữ quốc ngữ” có đoạn nêu rõ
 “Chữ quốc ngữ là hồn của nước,
Phải đem ra tính trước dân ta
Sách các nước sách Chi na
Chữ nào nghĩa ấy dịch ra tỏ tường
. Một người học muôn người đều biết,
Trí ta khôn muôn việc đều hay
Lợi quyền nắm được vào tay,
Có cơ tiến hoá, có ngày văn minh”
Thứ hai, phải học theo phương pháp mới, tránh lối tầm chương trích cú, nhằm rộng đường suy nghĩ, phát huy tính tích cực của người học. Trong “Văn minh tân học sách” nói rõ, trong học tập “cho phép học trò bàn bạc tha hồ, đối đáp tự do, không phải nề hà. Không cần thể cách gì hết. Rồi thêm vào đó mấy bài về toán pháp, về chữ quốc ngữ. Để cho cái mà học sinh học và thi không trái ngược với việc thực tế họ phải làm”
Thứ ba, chú trọng giáo dục nhân cách đạo đức thể hiện ở việc giáo dục đạo làm người: “yêu gia đình, yêu làng xóm không phải là ái quần”, “Lòng yêu nước”
Mục đích và nguyên tắc dạy học nêu trên của Đông Kinh nghĩa thục được thể hiện ở các môn học, chủ yếu về Văn văn, Hán văn, Pháp văn, Lịch sử, Địa dư, Luân lý, Toán pháp, các môn khoa học tự nhiên, trong đó Lịch sử, Địa dư, Văn, Luân lý được đặc biệt chú trọng, vì là những môn học này có sở trường và ưu thế đối với việc giáo dục tinh thần dân tộc, lòng yêu nước. Mộ số sách mang tính giáo khoa, phổ cập được biên soạn, như “Nam quốc vĩ nhân”, “Nam quốc giai sự”, “Việt Nam quốc sử lược”, “Văn minh tân học sách”, “Quốc dân độc bản”, “Luân lý giáo khoa (tân đính)”, “Quốc văn tập độc”. Đây là những tác phẩm có giá trị văn học, có ý nghĩa giáo dục thuộc dòng văn thơ yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX.
Qua nội dung các tập sách này, chúng ta thấy nổi lên tính dân tộc, tư cách một người yêu nước. “Luân lý giáo khoa (tân đính)” đã đặt việc giáo dục đạo đức lên hàng đầu; ‘bởi vì, nó là tinh hoa của quốc thể, nguồn gốc của giáo dục. Con em thanh niên ngày sau ra đời, tất đảm đang việc nước, có trách nhiệm về thế cuộc, nếu không trau dồi phẩm hạnh, thì tất cả các loại sách giáo khoa đều trở nên vô dụng hết”10 Có thể xem “Luân lý giáo khoa (tân đính)” là một quyển sách dạy cho thế hệ trẻ những điều cơ bản về các mối quan hệ và nghĩa vụ: “ĐỐI VỚI NƯỚC” (chương Hai), “ĐỐI VỚI NHÀ” (chương Ba), “ĐỐI VỚI MÌNH” (chương Bốn), “ĐỐI VỚI NGƯỜI” (chương Năm), “ĐỐI VỚI XÃ HỘI” (chương Sáu), “ĐỐI VỚI MUÔN LOÀI” (chương Bẩy).
Quyển “Quốc dân độc bản” gồm 79 bài với nhiều chủ đề khác nhau thuộc các lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, giáo dục; song điểm nổi bật, cũng là trọng tâm của sách, là nói về “Nguồn gốc xã hội”, “Lòng ái quần”, về đất nước “Bàn về nước”, “nước ta lập quốc từ xưa”, “nước ta khai hoá rất sớm” để di đến khẳng định rằng “Dân mạnh thì nước mạnh” và phải có “Lòng yêu nước” và phải hiểu “Thế nào là yêu nước thật sự” để hành động Tất cả nội dung của các bài viết đều nhằm giáo dục cho mọi người phải biết yêu nước, ra sức góp phần cho Tổ quốc giầu mạnh. Điều cốt yếu là thể hiện lòng yêu nước ở những công việc, như “phải rèn luyện tinh thần tự lập để công thủ và chiến thắng”, “phải dốc tâm tư, tài lực ra, phát huy những của cải tiềm tàng ấy, không bỏ phí một tấc đất nào, một sản vật nào mới thôi”, “phải mài sắc chí tiến thủ mà tự cường không nghỉ”, “phải bảo tồn cái hay vốn có để mở rộng lòng ái quần”, “dù có học tiếng nước ngoài cũng không miệt thị văn tự nước ta”
Qua nội dung một vài quyển sách nêu trên, chúng ta nhận thấy rõ mục đích khơi dậy tinh thần dân tộc, lòng yêu nước của Đông Kinh nghĩa thục. Khai thác sở trường và ưu thế của bộ môn, Đông Kinh nghĩa thục rất chú trọng trong việc giảng dạy, tuyên truyền các kiến thức lịch sử dân tộc. Không bài trừ việc học tập lịch sử nước ngoài, không chỉ xem kiến thức lịch sử nước ngoài là kiến thức bổ sung, hỗ trợ cho nhận thức về sự phát triển của xã hội loài người, còn điều quan trọng là phải học lịch sử nước để noi gương tổ tiên mà tự cường”: Có kiến thức mênh mông, có tài năng uyên bác mà không biết sử Nam thì không thể có lợi gì cho nước Nam. Như vậy, học sử Nam là nghĩa vụ thứ nhất hiện nay”
Nếu tìm hiểu kỹ về hoạt động dạy và học của trường, chắc chắn chúng ta sẽ ngạc nhiên, khâm phục. Cả nội dung và phương pháp dạy học đều đổi mới mạnh mẽ. Chữ Hán được dùng hàng ngàn năm trong học hành thi cử, chủ yếu được thay thế bằng chữ Quốc ngữ. Lời kêu gọi học và dùng chữ Quốc ngữ - một công cụ biểu đạt ngoại nhập chứ không phải nội sinh, nhưng rất tiện dụng - đã lay động lòng người
Chương trình học không còn là tứ thư ngũ kinh xưa cũ, mà là những môn cần thiết, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Toán pháp, Vệ sinh, Cách trí... thì dựa vào tài liệu của nhà trường Pháp Việt. Sử, Địa, Luân lý học thì tự biên soạn, với tinh thần tự hào dân tộc rất cao. Nếu những năm qua, có lúc chúng ta coi Sử là môn phụ, dẫn đến tình trạng "dân ta" mà chẳng biết "sử ta" thì Đông Kinh nghĩa thục đã rất coi trọng môn này. Hàng loạt cuốn sách giáo khoa đã được soạn và in ấn khẩn trương: Nam quốc lịch sử, Nam quốc vĩ nhân, Nam quốc giai sự, Bài ca địa dư và lịch sử nước nhà
Phương pháp dạy học của các cụ cũng lạ. Trong các buổi lên lớp, các giảng viên không làm theo kiểu "thầy đọc, trò chép" như cách làm phổ biến ở trung học (và cả ĐH) hiện nay, mà khuyến khích tinh thần tự do thảo luận của học sinh. Mặt khác, các hoạt động ngoại khóa, phụ khóa như diễn thuyết, đối thoại đã được coi trọng. Diễn giả là những giảng viên của trường, những trí thức cựu học và tân học tiên tiến. 
III. ĐÁNH GIÁ VỀ “ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC”:
	Đông kinh nghĩa thục là một ngôi trường tiến bộ, và những tiến bộ này không chỉ đã khai thông tư tưởng của một số người trong thời đại đó mà còn là cơ sở để tiếp tục xây dựng và phát triền nền giáo dục sau này.
Đông Kinh Nghĩa Thục đã nuôi dưỡng được một phong trào cách mạng công khai, hợp pháp khá sôi nổi, quyết liệt trong lĩnh vực đấu tranh về văn hoá và tư tưởng theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Đó cũng là một cuộc vận động chính trị, chuẩn bị về tinh thần, về tư tưởng cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng dân tộc, dân chủ trong thời đại mới. 
 	Trước hết Đông Kinh Nghĩa Thục đã nâng cao được tinh thần yêu nước, cách mạng ở những nơi có phong trào, lôi cuốn họ vào cuộc đấu tranh cho độc lập, tự do và giàu mạnh của đất nước. 
 	Trong lĩnh vực văn hoá tư tưởng, thành tích nổi bật của Đông Kinh Nghĩa Thục là đề cao chữ Quốc ngữ, mạnh dạn sử dụng trong giảng dạy, biên soạn, dịch thuật, sáng tác. Từ đó chữ Quốc ngữ nhanh chóng thâm nhập các lĩnh vực xã hội, ngày càng cải tiến trở thành chữ viết của dân tộc. 
Một trăm năm sau (1907-2007), những sĩ phu đầu thế kỷ XXI còn Cảm nhận giá trị minh triết của Đông Kinh Nghĩa thục ( Bài viết của nhà nghiên cứu Văn hóa Nguyễn Khắc Mai) nhận định bốn giá trị minh triết còn tỏa sáng bầu trời Việt Nam.
1. Minh triết “Tuyết quốc sĩ”: Lo nghĩ về vận nước, thấy sỉ nhục, muốn rửa sạch nỗi nhục nô lệ, dân lầm than, yếu hèn, lạc hậu. 
“Hóa dân cường quốc”: Muốn chuyển hóa quốc gia, làm cho dân tộc tiến hóa, phải đổi mới tư cách của người dân bằng sự học cha ông, học quốc tế. Một nền kinh tế dân chủ, bình đẳng mọi thành phần, coi trọng luật pháp, nông, công, thương, khoa học, mở cửa thì dân mạnh, nước cường.
2. Minh triết “Chủ nghĩa mở trí khôn cho nhân dân”: Giáo dục là giải pháp hàng đầu. Giáo dục phổ cập. Dân cả nước không người nào là không đi học. Học cái gì? Học ba điều. Một là học vệ sinh, làm cho thân thể khỏe mạnh, ăn sạch, uống sạch, ở sạch, môi trường sạch, hít thở bầu không khí sạch. Hai là học trị sinh, tức là học cách làm ra thức ăn, đồ mặc và quản lý sản nghiệp. Ba là học làm người. Tức là học cách sống chung với nhau trong nhà, ngoài xã hội, giữ đạo làm người, không đánh mất nhân tính, tôn trọng tự do cá nhân, bình đẳng, biết yêu thương, chia sẻ
Muốn vậy phải bỏ lối học để lấy bằng cấp rởm, để lên chức thăng quan, đề cao một phương pháp học văn minh, khoa học, thiết thực với con người: “Thầy giáo đặt đề để mà hỏi, cho phép học trò bàn tha hồ, đối đáp tự do, không phải nề hà, không cần thể cách gì hết”.
3. Minh triết “Chấn hưng công nghệ”: Xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cường, theo tư bản phương Tây. Sản nghiệp là của riêng. Coi trọng nhà doanh nghiệp: “Người giàu bỏ vốn ra phát triển công nghiệp thì dân ta sẽ cảm kích, xưng tụng, sao lại sinh lòng đố kỵ?”.
4. Minh triết “Chính phủ chỉ là người trong quốc dân nắm chính quyền”.
Cái hạn chế cơ bản của đông kinh nghĩa thục là rập khuôn mô hình của nhật bản, chưa có sự phân loại người học và trình độ, hình thức đại trà.
Sự duy tân diễn ra chưa có chuẩn bị, sự thay đổi đột ngột đôi khi làm người dân khó tiếp thu kịp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1): Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, Tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội, 1974, tr. 208.
(2): Phan Ngọc Liên, Nguyễn Ngọc Cơ (đồng chủ biên): Lịch sử sử học Việt Nam, Nxb ĐHSP Hà Nội, 2003, tr. 175
(3): Văn thơ Đông Kinh nghĩa thục, Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1997, tr.9
(4): Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (đồng chủ biên): Đại cương Lịch sử Việt Nam Toàn tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 627.

File đính kèm:

  • doctai_lieu_dong_kinh_nghia_thuc.doc