Tài liệu Chiến thắng xuân Kỷ Dậu (1789) và vua Quang Trung

Suốt hai trăm năm nay, cứ đến mùa Xuân, trong khi hưởng thú vui ngày Tết, người ta không quên nhắc đến chiến thắng lịch sử Kỷ Dậu (1789) với Vua Quang Trung, một trong những anh hùng dân tộc.

Theo tư liệu đã phổ biến, như Việt Nam Sử Lược của Trần trọng Kim. mùa xuân Kỷ Dậu (1789) quân Tây Sơn do Vua Quang Trung cầm đầu đã bất ngờ tiến đánh phá tan 20 vạn quân Thanh của Tôn sĩ Nghị, lúc đó đang trấn giữ miền Bắc để bảo vệ triều đình Lê chiêu Thống. Dù cho số quân Thanh có thể ít hơn, vì không có thống kê rõ ràng, nhưng chiến thắng lẫy lừng này chưa ai dám phủ nhận.

Gần đây, ông Nguyễn gia Kiểng, trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn (?)đã viết một bài, bằng những suy luận riêng,-với dẫn chứng vu vơ- thâm ý có lẽ muốn làm giảm giá trị chiến thắng này cùng vai trò của Vua Quang Trung.

Ðây là luận cứ của ông Nguyễn gia Kiểng, từ trang 155 sách đã dẫn:

“-.Thực ra các tài liệu của nhà Thanh (?)cho thấy một cách rất rõ ràng là vua Càn Long không có ý định đánh chiếm nước ta. Không những thế vua. còn cấm Tôn sĩ Nghị giao chiến. ý đồ của họ chỉ là dọa để Nguyễn Huệ thần phục nhà Lê.( hay) giúp Lê Chiêu Thống có thanh thế . để chia đất với Nguyên Huệ mà thôi!

-.Con số hai chục vạn quân Thanh cũng rất sai sự thực. Tôn Sĩ Nghị sang bằng đưồng bộ, mà đường bộ thì bị vách núi dầy đặc ngăn cách không thể di chuyển một số quân khổng lồ như vậy.

-.Thành phố Hà Nội hồi đó có bao nhiêu dân cư? . hai chục ngàn là cùng. Các tài liệu còn giữ lại (?)chỉ nói quân Thanh đóng đồn ở vài làng nhỏ cạnh Hà Nội.

Về tư liệu, NGK dẫn chứng giáo sư Ðài Loan Tưởng Quân Chương,-đã dựa vào tài liệu của Thanh triều (?)-nói rằng:”Tôn Sĩ Nghị đã đem sáu ngàn kỵ binh sang Việt Nam để phô trương thanh thế và làm lễ thụ (hay tấn?) phong cho Lê Chiêu Thống, nhưng đã bị Nguyễn Huệ đánh bất ngờ, thua chạy.” Con số này theo tôi (NGK) là hợp lý. Tôi chưa thấy sử gia nào bác bỏ sự kiện của ông Tưởng.”

 

doc 30 trang cucpham 25/07/2022 6100
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Chiến thắng xuân Kỷ Dậu (1789) và vua Quang Trung", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu Chiến thắng xuân Kỷ Dậu (1789) và vua Quang Trung

Tài liệu Chiến thắng xuân Kỷ Dậu (1789) và vua Quang Trung
CHIẾN THẮNG XUÂN KỶ DẬU (1789) VÀ VUA QUANG TRUNG
DƯƠNG HUỆ ANH
Phần I
Suốt hai trăm năm nay, cứ đến mùa Xuân, trong khi hưởng thú vui ngày Tết, người ta không quên nhắc đến chiến thắng lịch sử Kỷ Dậu (1789) với Vua Quang Trung, một trong những anh hùng dân tộc.
Theo tư liệu đã phổ biến, như Việt Nam Sử Lược của Trần trọng Kim.. mùa xuân Kỷ Dậu (1789) quân Tây Sơn do Vua Quang Trung cầm đầu đã bất ngờ tiến đánh phá tan 20 vạn quân Thanh của Tôn sĩ Nghị, lúc đó đang trấn giữ miền Bắc để bảo vệ triều đình Lê chiêu Thống. Dù cho số quân Thanh có thể ít hơn, vì không có thống kê rõ ràng, nhưng chiến thắng lẫy lừng này chưa ai dám phủ nhận.
Gần đây, ông Nguyễn gia Kiểng, trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn (?)đã viết một bài, bằng những suy luận riêng,-với dẫn chứng vu vơ- thâm ý có lẽ muốn làm giảm giá trị chiến thắng này cùng vai trò của Vua Quang Trung.
Ðây là luận cứ của ông Nguyễn gia Kiểng, từ trang 155 sách đã dẫn:
“-..Thực ra các tài liệu của nhà Thanh (?)cho thấy một cách rất rõ ràng là vua Càn Long không có ý định đánh chiếm nước ta. Không những thế vua.. còn cấm Tôn sĩ Nghị giao chiến... ý đồ của họ chỉ là dọa để Nguyễn Huệ thần phục nhà Lê..( hay) giúp Lê Chiêu Thống có thanh thế .. để chia đất với Nguyên Huệ mà thôi!
-..Con số hai chục vạn quân Thanh cũng rất sai sự thực. Tôn Sĩ Nghị sang bằng đưồng bộ, mà đường bộ thì bị vách núi dầy đặc ngăn cách không thể di chuyển một số quân khổng lồ như vậy.
-..Thành phố Hà Nội hồi đó có bao nhiêu dân cư? .. hai chục ngàn là cùng... Các tài liệu còn giữ lại (?)chỉ nói quân Thanh đóng đồn ở vài làng nhỏ cạnh Hà Nội.
Về tư liệu, NGK dẫn chứng giáo sư Ðài Loan Tưởng Quân Chương,-đã dựa vào tài liệu của Thanh triều (?)-nói rằng:”Tôn Sĩ Nghị đã đem sáu ngàn kỵ binh sang Việt Nam để phô trương thanh thế và làm lễ thụ (hay tấn?) phong cho Lê Chiêu Thống, nhưng đã bị Nguyễn Huệ đánh bất ngờ, thua chạy..” Con số này theo tôi (NGK) là hợp lý. Tôi chưa thấy sử gia nào bác bỏ sự kiện của ông Tưởng..”
Tư liệu khác mà NGK dẫn ra là:” Hoàng Lê Nhất Thống Chí”- HLNTC-một tiểu thuyết lịch sử?- mà phủ đầu NGK đã gán cho là”một cuốn sách khá thuận cho Tây Sơn”. Theo sách này, (lời NGK) thì tướng Tây Sơn, Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm bàn với nhau rằng đánh quân Thanh không được vì dân chúng Bắc Hà ủng hộ quân Thanh và ghét Tây Sơn..( Ðây cũng là một sự kiện rất quan trọng chứng tỏ dân chúng không ngưỡng mộ Nguyễn Huệ như một số tác giả viết- Lời NGK).
Tư liệu khác nữa mà NGK dựa vào là thư từ của nhóm giáo sĩ ngoại quốc có mặt ở đó (thuộc Mission apostolique en Extrême Orient), theo đấy, họ tỏ ý bênh vực nhà Tây Sơn..( vì) Tây Sơn không để ý đến tôn giáo. Theo một giáo sĩ mô tả lại trận Ngọc Hồi (Ðống Ða), thì không thể(gọi) là lớn được. NGK cũng đưa ra vài sự kiện, trích trong HLNTC.. rồi kết luận:” những dữ kiện này chứng tỏ trận Ðống Ða chỉ là một trận nhỏ.”
Rồi NGK còn suy luận “ trong số quân Thanh kéo nhau qua sông, bị xập cầu chết, có nhiều Hoa kiều.. vì họ chạy bộ- “ có lẽ để phù hợp với số 6 ngàn kỵ binh của ông Tưởng Quân Chương đưa ra.
Về thân thế anh em vua Quang Trung, NGHK dựa vào HLNTC cho rằng ông là con Hồ Phi Phúc, thuộc giới giầu có, không phải xuất thân nông dân áo vải như Việt Nam Sử Lược viết, (mà NGK cho là Trần Trọng Kim cũng dựa theo HLNTC nhưng thêm bớt có lợi cho nhà Tây Sơn).
Theo ý NGK, “ba anh em Nhạc, Lữ, và Huệ lớn lên đi ăn cướp... Ba anh em liên kết với hai đám cướp biển người Trung Hoa là Tập Dinh và Lý Tài và cùng chiêu mộ nhiều người Thượng.” NGK cũng giải thích lý do các tướng Tây Sơn đều được gọi là đô đốc, vì quân họ do đám cướp biển huấn luyện.
Cũng theo NGK, một sự kiện nổi bật mà các sử gia cố tình làm ngơ là quân Tây Sơn thuần túy chỉ là giặc cướp, và từ lúc dấy lên.. cho đến lúc diệt Trịnh và Nguyễn,.. họ không đưa ra bất cứ một chủ trương dựng nước nào (hịch hiệu triệu quốc dân, chẳng hạn).. họ chỉ đánh phá và cướp bóc mà thôi, không nhân danh một chính nghĩa nào!
Ông NGK viết:”.. Lúc đó, dù mới mười tám tuổi, Nguyễn Huệ đã bắt đồng đảng và dân chúng gọi mình là “Ðức Ông Tám”. Cái lối tự xưng xấc xược này cũng là đặc tính của đám thảo khấu. Nhưng dù sao, NGK cũng phải công nhận:” Nguyễn Huệ là một tướng giỏi, nhiều công trận lại giữ mặt Bắc phòng họ Trịnh nên nắm phần lớn quân Tây Sơn trong tay... Nguyễn Huệ mới chỉ làm vua được bốn năm, đang chuẩn bị đánh Trung Hoa.. thì mất năm 1792).
Nguyễn Huệ là một con người hung bạo, đánh tất cả mọi ngưiời, đó là một sự thực... Ðến cả Nguyễn Nhạc, Huệ cũng đánh. Nguyễn Huệ dùng bạo lực và sự tráo trở trong mọi trường hợp đối với bất cứ ai có khả năng trở thành một đối thủ.. Nguyễn Huệ cũng rất tàn ác, các giáo sĩ thời ấy dù bênh Tây Sơn, cũng ghê sợ về sự tàn ác của Nguyễn Huệ và gọi ông là một thứ “Atttila” mới. NGK còn biện hộ cho hành động thô bạo “quật mồ” Nguyễn Huệ của Nguyễn Ánh là để báo thù sự tàn sát họ Nguyễn và đào mả tổ tiên Nguyễn Ánh trước đây, của nhà Tây Sơn.(?)”
Khả năng nhìn xa, trông rộng (tài dụng binh) của Nguyễn Huệ, theo NGK, cũng rất giới hạn như trong vụ đánh Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ rồi để họ bị Nguyễn Ánh tiêu diệt, ý đồ đánh Trung Hoa.. trong khi chưa diệt tuyệt Ánh cũng bị NGK phê là điên dại..
Sự chiến thắng Trịnh, Nguyễn.. theo NGK, là do tinh thần phân hóa của dân chúng, một phần do ảnh hưởng của đạo Gia Tô làm suy yếu lực lượng triều đình.. anh em Tây Sơn thắng không phải vì họ mạnh, mà vì thế lực địch tan rã, (nên) không cần đánh một trận đáng kể nào
Vẫn theo NGK, một chuyên viên của Anh quốc, từ Ấn Ðộ qua quan sát, sau vụ Tây Sơn chiếm Gia Ðịnh, 1778, đã báo cáo “chỉ cần đạo quân 100 người, có kỷ luật, cũng đủ đánh tan toàn bộ quân Tây Sơn một cách nhanh chóng.” Nhưng ở một đoạn khác, NGK lại nói: “ Nguyễn Huệ trấn áp được thiên hạ nhờ có được một đạo quân tinh nhuệ..” Và:” Lý do thành công của Nguyễn Huệ là ông có một đạo quân thực sự trong khi các đối thủ của ông không có. Những chiến thắng như vậy không đòi hỏi một tài dụng binh nào”.
Tuy nhiên, NGK cũng công nhận :” Ở trong Nam có trận thủy chiến tại Cần Giờ là đáng kể. Nguyễn Huệ chỉ huy gần một trăm chiến thuyền, như vậy cũng là vài ngàn thủy quân... Nguyễn Huệ cũng phá được quân Xiêm..( đông tới hai vạn người.) Cả ba trận Cần Giờ, Mãn Thít và Ðống Ða đều ở rất dưới tầm cỡ của những trận đánh thời Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi đánh đuổi quân Minh..
Nguyễn Huệ chỉ mới làm vua được gần bốn năm thì mất nên tài trị nước của ông không thể bàn đến. Một việc triều đình của ông làm thường được ca tụng là hay dùng chữ Nôm.Nhưng chữ Nôm thời đó đã phát triển lắm rồi. Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán đã ra đời trước đó.Và đã có Nguyễn Du. .. dụ khuyến nông .. chỉ là một dụ bình thường lập lại những gì các vị vua trước đã nói. Một biện pháp làm khổ dân chúng rất nhiều là dùng Tín Bài, một thứ thẻ căn cước, để kiểm soát dân chúng, trong mục đích bắt lính chuẩn bị đánh Trung Hoa... là điều mà một vị vua sáng suốt không thể làm.”
.. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chặn đứng hẳn sự bành trướng của lãnh thổ Việt Nam vào đất Cam Bốt.. Nếu không có anh em Tây Sơn chắc chắn nước Cam Bốt không còn... Nhưng anh em Tây Sơn đã làm một việc khác rất lớn, rất tai hại cho chúng ta và đã khiến chúng ta là chúng ta ngày nay: đó là phá tan và chấm dứt hơn hai thế kỷ tiếp xúc và giao thương đầy hứa hẹn với thế giới bên ngoài, nhất là phương Tây.
NGK có ý trách sử gia Trần Trọng Kim, khi viết Việt Nam Sử Lược, “đã không cảm thấy có bổn phận phải tuyệt đối khách quan, và đặc biệt là đối với nhân vật Nguyễn Huệ, ông đã để nhiều tâm tình và thiên kiến vào đó. Ông dựng đứng ra chuyện Nguyễn Huệ ra Bắc” phù Lê diệt Trịnh” ? để ca tụng Nguyễn Huệ “dứt họ Trịnh, tôn vua Lê đem lại cương thường cho rõ ràng. Ấy là có sức mạnh mà biết làm việc nghĩa vậy”sic”. Thật là đổi trắng thay đen! (?)Ông Trần Trọng Kim cũng dựng đứng ra con số hai chục vạn quân Thanh, không có trong một sử liệu nào để thổi phồng tầm vóc của trận Ðống Ða và ca tụng Nguyễn Huệ “đaị phá quân Thanh”.
NGK cũng ghi là:” Trong hịch của Tôn Sĩ Nghị có nói tới năm chục vạn, nhưng đó theo HLNTYC chỉ là tờ truyền đơn mà mục đích là hù dọa làm mất tinh thần quân Tây Sơn. Theo NGK, chính Nguyễn Huệ đã là nguyên nhân đưa tới việc quân Thanh sang can thiệp (không phải cứu nước, như họ Trần kể công!).
NGK còn chê những thủ đoạn của vua Quang Trung trong việc giao thiệp với nhà Thanh, như sang chầu, lạy phục và ôm chân Càn Long, nhưng cho Phạm Công Trị đi thay thế.. là tự hạ mình.
NGK còn cho là Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã có chủ trương đề cao Nguyễn Huệ (Anh hùng áo vải) để tuyên truyền cho phong trào Cách Mạng vô sản; hành động của Nguyễn Huệ tương tự như của Cộng Sản (bạo lực, chiến tranh, độc đoán, tráo trở..), hình ảnh Nguyễn Huệ đã đóng góp rất nhiều cho thắng lợi của đảng Cộng Sản ..
Tóm lại, theo NGK, chiến thắng quân Thanh.. binh Trịnh, binh Nguyễn .. của Nguyễn Huệ không giá trị bao nhiêu, và có thể ông còn làm hại cho quyền lợi đất nước ( nhà Thanh mượn cớ can thiệp, ngưng cuộc Nam tiến..)
Tổng luận, theo NGK, thiên tài quân sự và những đức độ nhân ái, anh minh.. của Nguyễn Huệ theo lịch sử.. chỉ là sự xuyên tạc, có dụng ý. Thực sự, phải hiểu lịch sử như thế nào?
Trước hết, ông NGK không đưa ra được một tư liệu nào rõ ràng, khả tín để chứng minh những phán xét của ông. Về sử liệu nhà Thanh, ông dựa vào để quyết đoán mà không đưa ra bằng chứng cụ thể nào; bộ Hoàng Lê Nhất Thống Chí(HLNTC) ông thường viện dẫn, thực ra là một tiểu thuyết lịch sử (dân gian) khó tin cậy; còn những lá thư của nhóm giáo sĩ (có tính cách riêng tư) nghĩ cũng ít giá trị thuyết phục.
Ðiều dễ nhận thấy là ông NGK hình như có chủ ý làm giảm giá trị chiến thắng của nhà Tây Sơn, và hạ thấp vai trò lãnh đạo của vua Quang Trung.
Không hiểu ông căn cứ vào tài liệu nào của nhà Thanh để quyết đoán là vua Càn Long không có ý định đánh chiếm nước ta. NGK cũng cả quyết “con số hai chục vạn quân Thanh rất xa sự thực” mặc dầu ông viết, theo” hiệu triệu của Tôn Sĩ Nghị có tới 50 vạn quân Thanh kéo sang” nước ta. Ông lý luận là vì Tôn qua bằng đường bộ nên không thể đưa nhiều quân sang. Nhưng theo những sử liệu Việt Nam hi ...  hùng tráng làm tăng khí sắc của sông núi bội phần. Khách du quan đến Bình Định, tưởng không nên quên núi Ngang vậy. Các thầy địa lý Việt Nam cũng như Trung hoa đều công nhận đất Hoành sơn là đại địa, vì có nào bút nào nghiên, nào ấn nào kiếm, nào cổ nào chung, ở bên tả bên hữu. Trước mặt trên ba nổng gò, đá mọc giăng hàng giống như những toán quân đứng chầu chực. Và xa xa có hổ phục long bàn. 
          Không phải ngoa ngôn: Bút đó là hòn Trung sơn ở bên Phú lạc, xa trông phảng phất như ngòi bút chép mây. Nghiên đó là hòn Hội sơn tục gọi là hòn Dũng, trong địa phận Trinh tường về phía nam, đứng đối trí cùng hòn Trung sơn ở phía bắc. Cũng như hòn Hoành sơn và hòn Trung sơn, hòn Hội sơn không cao lắm (491 m) nhưng trông đồ sộ, uy nghiêm. Trên núi có một vũng nước vừa rộng vừa sâu, quanh năm không bao giờ cạn. Người địa phương lên vỡ đất làm ruộng, đất tốt không kém dưới đồng bằng. Vì núi có vũng nước nên đám bình dân, gọi núi là hòn Vũng thay vì hòn Dũng. Còn đám hàn mặc thì coi vũng nước là nghiên mực của trời, nên đặt cho núi một tên nữa là NGHIÊN SƠN tức HÒN NGHIÊN vậy. Lên chơi hòn Nghiên, Ðịnh Phong có mấy câu cảm hứng: 
“Trên non có nước
Gắng bước mà lên
Nước non còn nợ chớ quên
Lòng trong với nước gan bền cùng non
Trời Tây mây kéo hoàng hôn
Biển Ðông thấp thoáng sóng dồn bình minh
Nghiên son mài ráng lung linh
Bút tuôn hàng nhạn chép tình nước non...”
          Hòn NGHIÊN và hòn BÚT nằm bên hữu và bên tả hòn Hoành sơn, trông thật cân đối. Khách thơ ví von Hoành sơn như bức bình phong, còn hai hòn BÚT NGHIÊN là hai trụ ba biểu đứng hai bên, hơi lấn ra phía trước một ít. Sát bên chân hòn Hoành sơn lại có hai hòn núi nhỏ đứng song song, giống hệt bộ chuông trống nho nhỏ để trước chiếc án thờ. Ðó là HÒN MỘT và HÒN GIẢI. Cổ nhân gọi hòn Một là CHUNG SƠN tức hòn Chuông, hòn Giải là CỔ SƠN tức hòn Trống. 
          Cổ nhân đặt tên không phải dựa vào vị trí, nhưng dựa hình dạng. Hòn Một trông phảng phất qủa chuông đồng. Còn hòn Giải thì đứng ở phía bắc trông vào thì dáng tròn tròn như cái trống. Nhưng đứng phía đông mà ngó lại thấy hơi vuông vuông như một chiếc ấn. Vì vậy hòn Giải còn có tên nữa là ẤN SƠN tức hòn Ấn. Ðặt cho hòn Giải tên Ấn sơn chẳng phải vì hình dáng mà còn vì ở phía đông, nơi vùng Gò Sặt (Trinh tường) có một hòn núi thấp và dài gọi là hòn KIẾM SƠN tức hòn Kiếm. Có Kiếm thì phải có Ấn mới đủ đôi. 
          Truyền rằng: Sau khi chiếm được long huyệt ở Hoành sơn thì ba anh em Nguyễn Nhạc vùng phát tướng. Gương mặt trông sáng rỡ, và việc học hành - võ cũng như văn - tiến bộ lạ thường. Thầy học là cụ Giáo Hiến - một người miền Ngoài, giỏi văn lẫn võ, lại rành khoa tướng số - trước kia vốn đã có biệt nhãn cùng ba anh em họ Nguyễn, nay thấy thần sắc, biết vận trời đã đến, bèn đem câu sấm "Tây khởi nghĩa, Bắc thu công" ra khuyên Nguyễn Nhạc vè lo mưu đồ đại sự. Vâng lời thầy, ba anh em trở về Kiên thành lo chiêu mộ hào kiệt. 
          Vùng đất Tây Sơn xưa kia núi rừng rậm rạp, chuyện thần linh qủy dữ lan tràn khắp đó đây. Ðể quy tụ lòng dân, Nguyễn Nhạc bèn lợi dụng óc mê tín của quần chúng. Hòn Trung sơn ở Phú lạc tuy ở gần thôn xóm, nhưng ít ai dám lên vì sợ "mả mẹ chàng Lía", và nhất là sợ cọp. Thỉnh thoảng Nguyễn Nhạc cho người tâm phúc lên núi, nủa đêm nổi trống nổi chiêng. Người chung quanh vùng kẻ cho rằng hồn chàng Lía về cúng mẹ, người lại bảo đó là quỉ thần mở hội vui. Kẻ bàn người tán, không mấy lúc tiếng bay tận ngàn xa, một thành mười, mười thành trăm... Hòn Trung sơn từ xưa đã có tiếng càng thêm nổi tiếng. 
          Một hôm, nhà Nguyễn Nhạc có kỵ. Khách khứa đông đúc. Cỗ bàn vừa ăn xong thì trời đã khuya. Những người ở xa đều phải nghỉ lại, còn người trong xóm thì lục tục ra về. Bỗng trên Trung sơn, tiếng trống chiêng vang dội, và trong bóng cây trên đỉnh, ánh lửa lập loè. Ai nấy đều kinh dị. Nguyễn Nhạc rủ người lên xem thử "quỉ thần làm trò gì". Phần đông đều e ngại. Chỉ bốn năm tay lực sĩ xin theo. 
          Nai nịt gọn gàng, chân vũ hài, tay trường kiếm, đoàn người lần bước lên đỉnh Trung sơn. Khi gần đến đỉnh, trong ánh lửa mập mờ hiện ra một ông lão râu ba chòm bạc phếu, đầu đội mũ cánh chuồn, mình khoác áo đại bào, chân đi hia..., bộ dạng giống hệt một ông lão văn trong các vở tuồng hát bội. Ai nấy ớn lạnh vì sợ, và không ai bảo ai, mọi người đều dừng lại một lượt. Ông lão cất tiếng bảo: Trong anh em có ai là Nguyễn Nhạc chăng? Nếu có thì hãy lại gần đây nghe lệnh. Còn các người khác hãy đứng yên. Nguyễn Nhạc run sợ bước ra, đến quì trước mặt ông lão. Ông lão phất tay áo, lấy ra một tờ chiếu rồi đọc lớn: Ngọc Hoàng sắc mạng Nguyễn Nhạc vi Quốc vương. 
          Ðoạn trao tờ chiếu cho Nguyễn Nhạc rồi quay bước đi vào trong bóng tối. Từ ấy tiếng đồn khắp nơi, và ngôi Quốc vương của Nguyễn Nhạc nằm vững trong tâm trí quần chúng. Trong đám sĩ phu, trừ cụ giáo Hiến, không mấy ai biết đó là kế của Nguyễn Nhạc. 
Chưa lấy làm đủ, Nguyễn Nhạc còn tìm một thanh bảo kiếm và đúc một quả ấn vàng, rồi đem dấu trong vùng núi Trinh tường. 
          Một hôm cùng bộ hạ ở An khê về, đến Hoành sơn thì ngựa của Nguyễn Nhạc lồng lên, rồi thẳng cổ chạy nước đại. Nhưng không chạy trẽ ra hướng bắc để qua sông về Kiên thành, lại chạy vào hướng đông nam. Ðến chân núi phía trong gò Sặt, cương ngựa bị đứt, Nguyễn Nhạc té nhào, trặc chân không đứng dậy nổi. Ðám tùy tùng chạy đến xoa bóp hồi lâu mới đỡ. Khi đứng dậy để lên ngựa trở về, Nguyễn Nhạc chợt thấy chuôi kiếm ló ra nơi vách đá trên sườn núi. Sai người lên lấy thì là một thanh kiếm xưa lưỡi sáng như nước. Ai nấy đều mừng là "của trời ban". 
          Về nhà Nguyễn Nhạc nói cùng hai em và thuộc hạ: Ngọc Hoàng đã sắc phong ta làm Quốc vương, lẽ tất nhiên là phải ban ấn kiếm. Nay kiếm đã có rồi, ta phải đi tìm ấn. Ðoạn tổ chức ngay lễ cầu đảo tại chân núi Hoành sơn. Cầu đảo ba đêm ngày. Ðêm làm lễ, ngày cho người đi tìm khắp nơi. Ðã hai ngày liền, hàng trăm người chia nhau đi khắp các núi khe quanh Hoành sơn, mà không có kết qủa. Ðêm thứ ba, lúc nửa đêm chiêng trống hành lễ vừa dứt, thì một vòi lửa như pháo thăng thiên bay xẹt từ hòn Một đến hòn Giải thì rơi xuống. Tiếp đó một tiếng nổ nhỏ như tiếng pháo tre, rồi một tiếng nổ lớn có phần dữ dội làm chấn động cả vùng. Ai nấy đều thất kinh. Sáng sớm Nguyễn Nhạc đem người đến hòn giải xem, thì thấy sườn phía nam có một vùng như bị sét đánh lở và nám đen. Trèo lên xem thì một quả ấn vàng nằm trong kẽ đá tại nơi bị lở. Ai nấy đều tin là "ấn trời ban". 
          Sau khi dụ được người Thượng các sóc theo mình, Nguyễn Nhạc dùng rừng Mộ điểu làm căn cứ quân sự. Dinh trại đóng trên núi. Ðể lấy lương thực nuôi quân, cho phá rừng làm ruộng. Công việc khai khẩn, tiếp đến công việc canh tác và thu hoạch đều do cô Hầu đảm đương. 
          Khi Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế ở Ðồ Bàn, cô Hầu vẫn ở nhà khai thác đồng lúa. Do đó đồng mệnh danh là đồng Cô Hầu. Và ngọn núi coi như là nơi phát tích nhà Tây Sơn nên được tôn xưng là núi HOÀNG ÐẾ. Khi mới khởi sự, binh lính của nhà Tây Sơn phần đông đều là người Thượng. Những người Thượng mộ được ở vùng An khê (An túc hiện thời) trước hết đều dồn về căn cứ Mộ Ðiểu tập luyện trong ít lâu rồi mới đưa xuống núi Ông Bình, Ông Nhạc ở dưới đèo An khê để khép vào hàng ngũ và huấn luyện thêm. 
          Truyền rằng: Một hôm Nguyễn Huệ vâng lệnh anh chỉ huy một đạo tân binh từ Mộ điểu xuống An bình. Gần đến chân phía tây đèo An khê thì đạo binh vùng thối lui: Một cặp rắn mun cực kỳ to lớn nằm chận giữa đường, cổ cất cao như cột nhà cháy và miệng hả to như hai chậu máu tươi. Mọi người đều kinh hồn và cho là một điềm xấu. Nguyễn Huệ liền xuống ngựa, chấp tay khấn: Nếu anh em chúng tôi có thể dựng được nghiệp lớn thì xin Xà Thần tránh đường cho quân đi. Bằng mạng số chúng tôi không ra gì thì chỉ xin cắn chết tôi mà tha cho quân lính được sống về cùng vợ cùng con. Vừa khấn xong thì cặp rắn quay đầu xuống, song song đi trước dẫn đường cho đạo binh. Tới thôn Thượng an thì dừng lại. Một con vào bụi rậm ngậm ra một thanh long đao, cán đen như mun, lưỡi bén như nước. Rồi cả hai ngậm ngang thanh đao, song song bò đến dâng cho Nguyễn Huệ. Ðoạn biến mất. Thanh đao Nguyễn Huệ dùng đánh giặc là thanh đao của thần rắn dâng. Ðể tỏ lòng tri ân, Nguyễn Huệ lập miếu thờ thần rắn tại nơi dâng đao. Miếu ấy hiện nay vẫn còn và tục gọi là Miếu Xà. 
          Nhưng miếu hiện thời không phải là miếu ngày trước. Vì miếu xưa đã lâu đời bị sập đổ. Trong một khoảng thời gian khá lâu dấu tích đã bị mất hẳn. Nhưng rồi cọp thường ra ngồi rình nơi sân miếu, hành khách qua lại bị hao khá nhiều. Ðể tránh hổ hoạn, người địa phương bèn lập lại miếu thờ, hầu mong thần rắn phù hộ. 
          Lại có người bảo rằng: Miếu xà là nơi thờ con rắn mà Nguyễn Nhạc đã chém lấy máu đề cờ khi cử lễ xuất binh đánh chúa Nguyễn. Con rắn Nguyễn Nhạc chém đó cũng loại rắn mun. Chuyện Nguyễn Nhạc chém rắn lấy máu đề cờ thường nghe các phụ lão ở miệt dưới đèo An khê kể. Chuyện rắn mun dâng long đao cho Nguyễn Huệ thường nghe các phụ lão ở vùng phía tây đèo An khê và những người buôn Thượng kể. 
          Một bên thì lấy cây Cầy cây Ké ở đèo An Khê, là nơi Nguyễn Nhạc tế cờ trước khi xuất binh, và câu "Cây Ké phất cờ, cây Cầy khỉ cổ" của địa phương làm bằng. Một bên thì chỉ "Miếu Xà" làm chứng. Chuyện tuy không có sách vở chép để, song có bằng chứng rõ ràng. Như vậy tin cũng khó mà không tin cũng khó. 
          Những câu chuyện huyền thoại thường đều xây dựng trên sự thật. Chuyện "chém rắn đề cờ", chuyện "rắn thần dâng đao", một là chuyện có thật, nhưng "có ít xít ra nhiều"; hai là những con rắn thần kia do nhà Tây Sơn "đẻ ra". Những câu chuyện "Ngọc Hoàng ban sắc", "Ngọc Hoàng ban ấn kiếm", đã kể ở các mục trước, có thể chứng minh cho thuyết "rắn do người đẻ". 
          Mà những bậc đại tài như Tây Sơn tam kiệt thì chỉ hai bàn tay trắng còn gây được sự nghiệp nghìn thu, huống hồ chỉ "đẻ" ra những linh vật. Và trong khoảng nước non từ đồng cô Hầu, núi Hoàng đế đến đèo An khê còn nhiều chuyện hư hư thực thực về nhà Tây Sơn. 
“Còn non còn nước còn người
Còn duyên bút mực còn lời nước non”.
          Quách Tấn

File đính kèm:

  • doctai_lieu_chien_thang_xuan_ky_dau_1789_va_vua_quang_trung.doc