Giáo án Lịch sử Lớp 12 tự chọn - Chương trình cả năm - Nguyễn Văn Diện

Cách mạng dân tộc dân chủ Trung Quốc thắng lợi

 Sau khi chiến tranh chống Nhật kết thúc thắng lợi, cục diện cách mạng do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo đã có nhiều biến động quan trọng khác trước: lực lượng quân đội chủ lực phát triển lên tới 120 vạn người, dân quân 200 vạn người; vùng giải phóng bao gồm 19 khu căn cứ - chiếm gần ¼ đất đai và 1/3 dân số cả nước; ngoài ra, với sự giúp đỡ của Liên Xô (chuyển giao vùng Đông Bắc Trung Quốc, vùng công nghiệp có vị trí chiến lược quan trọng, cho Đảng Cộng sản và chính quyền cách mạng quản lý, giúp toàn bộ vũ khí tước được của hơn 1 triệu quân Quan Đông cho Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc v.v ), cách mạng Trung Quốc đã có những điều kiện thuận lợi và cơ sở vững chắc để phát triển mạnh mẽ.

 Trước sự lớn mạnh của cách mạng Trung Quốc, tập đoàn thống trị Tưởng Giới Thạch âm mưu phát động cuộc nội chiến nhằm tiêu diệt Đảng Cộng sản Trung Quốc và phong trào cách mạng Trung Quốc. Họ đã cấu kết chặt chẽ với Mỹ và dựa vào sự giúp đỡ về mọi mặt của Mỹ để thực hiện mưu đồ này. Mặt khác, sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Mĩ ra sức giúp đỡ Tưởng Giới Thạch phát động nội chiến với âm mưu biến Trung Quốc thành thuộc địa kiểu mới của Mĩ.

 Mĩ đã trang bị, huấn luyện trên 50 vạn quân đội Tưởng Giới Thạch, giúp đỡ vận chuyển quân đội Tưởng Giới Thạch đến bao vây các khu giải phóng, cho 10 vạn quân đội Mĩ đổ bộ vào Trung Quốc và hạm đội Mĩ cũng tiến vào cửa biển Trung Quốc (Sơn Đông). Trong vòng chưa đầy hai năm sau chiến tranh chống Nhật kết thúc, Mĩ đã “viện trợ” cho Tưởng Giới Thạch lên tới 4 tỉ 430 triệu đôla, trong đó đại bộ phận là “viện trợ” về quân sự.

 Sau khi được Mĩ giúp đỡ và chuẩn bị cho đầy đủ mọi mặt, ngày 20 – 7 – 1946, Tưởng Giới Thạch đã huy động toàn bộ lực lượng quân đội chính quy (113 lữ đoàn, khoảng 160 vạn quân) tấn công toàn diện vào các vùng giải phóng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cuộc nội chiến chính thức bùng nổ.

 Do so sánh lực lượng lúc đầu còn chênh lệch, từ tháng 7 – 1946 đến tháng 6 – 1947, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã thực hiện chiến lược phòng ngự tích cực, không giữ đất đai mà chủ yếu nhằm tiêu diệt sinh lực địch và xây dựng lực lượng mình. Qua một năm chiến đấu, quân giải phóng đã tiêu diệt được 1112000 quân chủ lực Quốc dân đảng và phát triển lực lượng chủ lực của mình lên tới hai triệu người.

 Từ tháng 6 – 1947, Quân giải phóng chuyển sang phản công, tiến quân vào giải phóng các vùng do Quốc dân Đảng thống trị. Từ tháng 9 -1948 đến tháng 1 – 1949, Quân giải phóng lần lượt mở 3 chiến dịch lớn (Liêu - Thẩm, Hoài - Hải, Bình – Tân), tiêu diệt tổng cộng hơn 1540000 quân Quốc dân đảng (gần 144 sư đoàn quân chính quy, 29 sư đoàn quân địa phương), làm cho lực lượng chủ lực của địch về cơ bản đã bị tiêu diệt.

 Tháng 4 – 1949, Quân giải phóng vượt sông Trường Giang, ngày 23 – 4, Nam Kinh - trung tâm thống trị của tập đoàn Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch - được giải phóng, nền thống trị của Quốc dân đảng đến đây chính thức sụp đổ. Ngày 1 – 10 – 1949, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa tuyên bố chính thức thành lập, đánh dấu cách mạng dân tộc dân chủ Trung Quốc đã hoàn thành. Với diện tích bằng ¼ châu Á và chiếm gần ¼ dân số toàn thế giới, thắng lợi của cách mạng Trung Quốc năm 1949 đã tăng cường lực lượng của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới và có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc thế giới.

 

doc 54 trang cucpham 21/07/2022 7180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo án Lịch sử Lớp 12 tự chọn - Chương trình cả năm - Nguyễn Văn Diện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo án Lịch sử Lớp 12 tự chọn - Chương trình cả năm - Nguyễn Văn Diện

Giáo án Lịch sử Lớp 12 tự chọn - Chương trình cả năm - Nguyễn Văn Diện
Chuyên đề 1:
Những bước thăng trầm của cách mạng Trung Quốc
I. Mục đích
- Nâng cao và bổ sung kiến thức cho học sinh lớp 12 Ban CB
- Rèn luyện một số kỹ năng phân tích và viết bài cho học sinh.
II. Nội dung chính:
1. Cách mạng dân tộc dân chủ Trung Quốc thắng lợi
        Sau khi chiến tranh chống Nhật kết thúc thắng lợi, cục diện cách mạng do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo đã có nhiều biến động quan trọng khác trước: lực lượng quân đội chủ lực phát triển lên tới 120 vạn người, dân quân 200 vạn người; vùng giải phóng bao gồm 19 khu căn cứ - chiếm gần ¼ đất đai và 1/3 dân số cả nước; ngoài ra, với sự giúp đỡ của Liên Xô (chuyển giao vùng Đông Bắc Trung Quốc, vùng công nghiệp có vị trí chiến lược quan trọng, cho Đảng Cộng sản và chính quyền cách mạng quản lý, giúp toàn bộ vũ khí tước được của hơn 1 triệu quân Quan Đông cho Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc v.v), cách mạng Trung Quốc đã có những điều kiện thuận lợi và cơ sở vững chắc để phát triển mạnh mẽ.
        Trước sự lớn mạnh của cách mạng Trung Quốc, tập đoàn thống trị Tưởng Giới Thạch âm mưu phát động cuộc nội chiến nhằm tiêu diệt Đảng Cộng sản Trung Quốc và phong trào cách mạng Trung Quốc. Họ đã cấu kết chặt chẽ với Mỹ và dựa vào sự giúp đỡ về mọi mặt của Mỹ để thực hiện mưu đồ này. Mặt khác, sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Mĩ ra sức giúp đỡ Tưởng Giới Thạch phát động nội chiến với âm mưu biến Trung Quốc thành thuộc địa kiểu mới của Mĩ.
        Mĩ đã trang bị, huấn luyện trên 50 vạn quân đội Tưởng Giới Thạch, giúp đỡ vận chuyển quân đội Tưởng Giới Thạch đến bao vây các khu giải phóng, cho 10 vạn quân đội Mĩ đổ bộ vào Trung Quốc và hạm đội Mĩ cũng tiến vào cửa biển Trung Quốc (Sơn Đông). Trong vòng chưa đầy hai năm sau chiến tranh chống Nhật kết thúc, Mĩ đã “viện trợ” cho Tưởng Giới Thạch lên tới 4 tỉ 430 triệu đôla, trong đó đại bộ phận là “viện trợ” về quân sự.
        Sau khi được Mĩ giúp đỡ và chuẩn bị cho đầy đủ mọi mặt, ngày 20 – 7 – 1946, Tưởng Giới Thạch đã huy động toàn bộ lực lượng quân đội chính quy (113 lữ đoàn, khoảng 160 vạn quân) tấn công toàn diện vào các vùng giải phóng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cuộc nội chiến chính thức bùng nổ.
        Do so sánh lực lượng lúc đầu còn chênh lệch, từ tháng 7 – 1946 đến tháng 6 – 1947, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã thực hiện chiến lược phòng ngự tích cực, không giữ đất đai mà chủ yếu nhằm tiêu diệt sinh lực địch và xây dựng lực lượng mình. Qua một năm chiến đấu, quân giải phóng đã tiêu diệt được 1112000 quân chủ lực Quốc dân đảng và phát triển lực lượng chủ lực của mình lên tới hai triệu người.
        Từ tháng 6 – 1947, Quân giải phóng chuyển sang phản công, tiến quân vào giải phóng các vùng do Quốc dân Đảng thống trị. Từ tháng 9 -1948 đến tháng 1 – 1949, Quân giải phóng lần lượt mở 3 chiến dịch lớn (Liêu - Thẩm, Hoài - Hải, Bình – Tân), tiêu diệt tổng cộng hơn 1540000 quân Quốc dân đảng (gần 144 sư đoàn quân chính quy, 29 sư đoàn quân địa phương), làm cho lực lượng chủ lực của địch về cơ bản đã bị tiêu diệt.
        Tháng 4 – 1949, Quân giải phóng vượt sông Trường Giang, ngày 23 – 4, Nam Kinh - trung tâm thống trị của tập đoàn Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch - được giải phóng, nền thống trị của Quốc dân đảng đến đây chính thức sụp đổ. Ngày 1 – 10 – 1949, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa tuyên bố chính thức thành lập, đánh dấu cách mạng dân tộc dân chủ Trung Quốc đã hoàn thành. Với diện tích bằng ¼ châu Á và chiếm gần ¼ dân số toàn thế giới, thắng lợi của cách mạng Trung Quốc năm 1949 đã tăng cường lực lượng của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới và có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc thế giới.
Câu hỏi: Trình bày ngắn gọn diễn biến của cuộc nội chiến cách mạng 1946 - 1949
2. Mười năm đầu xây dựng chế độ mới ( 1949 – 1959 )
        Từ năm 1950, Trung Quốc tiến hành những cải cách quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hoá nhằm xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa: cải cách ruộng đất và hợp tác hoá nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, triển khai cuộc cách mạng văn hoá, tư tưởng v.v Dựa vào sự giúp đỡ của Liên Xô, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1953 - 1957) hoàn thành thắng lợi, làm cho nền kinh tế và văn hoá, giáo dục Trung Quốc có những tiến bộ vượt bậc.
        So với 1952, sản lượng công nghiệp năm 1957 tăng 140%, sản lượng nông nghiệp tăng 25%. Trung Quốc đã tự sản xuất được 60% máy móc cần thiết và công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh đã căn bản hoàn thành.
        Sau 10 năm đầu xây dựng chế độ mới, nền kinh tế Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn: tổng sản lượng công – nông nghiệp tăng 11,8 lần, riêng công nghiệp tăng 10,7 lần. Nền văn hoá, giáo dục cũng đạt được những bước tiến vượt bậc.
        Về mặt đối ngoại, Trung Quốc đã kí với Liên Xô “Hiệp ước hữu nghị liên minh và tương trợ Trung – Xô” (tháng 2 – 1950), phái Quân chí nguyện sang giúp đỡ nhân dân Triều Tiên chống đế quốc Mĩ xâm lược, ủng hộ nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và nhân dân các nước Á, Phi, Mĩ Latinh trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong thập niên đầu sau khi cách mạng thắng lợi, địa vị của Trung Quốc đã được nâng cao trên trường quốc tế.
Câu hỏi: Hãy kể ngắn gọn những thành tựu mà nhân dân Trung Quốc đã đạt được trong công cuộc xây dựng chế độ mới qua mười năm đầu sau khi cách mạng thắng lợi (1949 – 1959).
3. Tình hình Trung Quốc từ sau năm 1959 và công cuộc cải cách hiện nay
        Từ năm 1959, với việc thực hiện đường lối “ba ngọn cờ hồng”, tức là “đường lối chung” xây dựng chủ nghĩa xã hội, “đại nhẩy vọt” và xây dựng “công xã nhân dân”, nền kinh tế Trung Quốc lâm vào tình trạng hỗn loạn, sản xuất giảm sút nghiêm trọng và đời sống của nhân dân Trung Quốc gặp rất nhiều khó khăn.
        Đường lối “ba ngọn cơ hồng” chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội theo phương châm “nhiều, nhanh, tốt, rẻ”, thực hiện cuộc “đại nhẩy vọt” bằng tăng sản lượng thép lên gấp 10 lần so với chỉ tiêu đề ra trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1958 – 1962), sản xuất công nghiệp tăng hơn 3 lần và nông nghiệp hơn 2 lần; hợp nhiều hợp tác xã lại thành “công xã nhân dân” trong đó xã viên sinh hoạt, sản xuất theo phương thức quân sự hoá và thực hiện chế độ “bao” cho ăn, ở, mặc, thuốc men, học phí, chôn cất khi chết v.v Do thực hiện đường lối “ba ngọn cờ hồng”, năm 1959 đã có hàng chục triệu người bị chết đói, đồng ruộng bị bỏ hoang, nhà máy bị đóng cửa vì thiếu nguyên liệu, lương thực.
        Năm 1959, Mao Trạch Đông phải thôi giữ chức vụ Chủ tịch nước và Lưu Thiếu Kì lên thay thế. Cũng từ đó, trong nội bộ Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc đã diễn ra những bất đồng về đường lối và tranh chấp về quyền lực hết sức quyết liệt, phức tạp giữa các phe phái khác nhau. Đỉnh cao của cuộc tranh giành quyền lực trong giới lãnh đạo Trung Quốc là cuộc “đại cách mạng văn hoá vô sản” diễn ra trong những năm 1966 – 1968.
        Hàng chục triệu “tiểu tướng Hồng vệ binh” được huy động đến đập phá các cơ quan Đảng, chính quyền, lôi ra đầu tố, truy bức, nhục hình từ Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kì đến Phó Thủ tướng, các nguyên soái, bộ trưởng và tướng tá. Hồng vệ binh có quyền giải tán các cấp uỷ Đảng, cách chức các cấp chính quyền và lập ra “uỷ ban cách mạng văn hoá” để thay thế nắm mọi quyền lực Đảng và chính quyền. Ở những nơi xảy ra cuộc đấu tranh của quần chúng chống lại sự phá phách, hành động ngang ngược và sự đấu tố tàn bạo của Hồng vệ binh thì quân đội được điều đến để đàn áp các lực lượng chống đối. Cuộc “đại cách mạng văn hoá vô sản” đã tàn sát hàng chục triệu người, gây nên một cục diện hỗn loạn, đau thương và những hậu quả tai hại cho đất nước Trung Quốc.
        Sau đó, từ năm 1968 đến 1978, trong nội bộ giới lãnh đạo Trung Quốc vẫn tiếp tục diễn ra nhiều cuộc thanh trừng, lật đổ lẫn nhau.
        Về mặt đối ngoại, từ năm 1959 trở đi, giới lãnh đạo Trung Quốc đã thi hành một đường lối bất lợi cho cách mạng Trung Quốc và cách mạng thế giới: gây nên những vụ xung đột vũ trang tranh chấp biên giới với Ấn Độ, Liên Xô. Đối với ba nước Đông Dương, từ sau “Thông cáo Thượng Hải” năm 1972 (1), những người lãnh đạo Trung Quốc đã thực hiện nhiều chính sách, biện pháp gây nên nhiều tổn thất nghiêm trọng cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ba nước Đông Dương.
(1) Thông cáo kí tại Thượng Hải giữa Tổng thống Mĩ Níchxơn và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai nhân dịp chuyến đi thăm Trung Quốc của Nichxơn vào tháng 2 – 1972.
        Tháng 21 – 1978, Hội nghị Ban chấp hàng trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã họp, vạch ra đường lối mới, mở đầu cho công cuộc cải cách kinh tế xã hội ở Trung Quốc hiện nay. Đến Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XIII vào cuối năm 1987, đường lối này được nâng lên thành đường lối chung của Đảng và Nhà nước Trung Quốc: trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội sẽ xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc, lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, kiên trì bốn nguyên tắc cơ bản (kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, kiên trì chuyên chính dân chủ nhân dân, kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin – tư tưởng Mao Trạch Đông), thực hiện cải cách và mở cửa, phấn đấu xây dựng Trung Quốc thành nước xã hội chủ nghĩa hiện đại hoá, giàu mạnh, dân chủ, văn minh.
        Trong chính sách đối ngoại, Đảng và Nhà nước Trung Quốc cũng có nhiều đổi mới, bình thường hoá quan hệ với Liên Xô, Mông Cổ, Lào, Inđônêxia, Việt Nam mở rộng mối quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trên thế giới.
        Từ sau khi thực hiện cải cách, Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, ổn định lại tình hình chính trị, xã hội và địa vị của Trung Quốc được nâng cao trên trường quốc tế.
Câu hỏi:
    1. Hãy kể ngắn gọn tình hình Trung Quốc từ năm 1959 đến cuối năm 1978
    2. Trình bày ngắn gọn đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay của Đảng và Nhà nước Trung Quốc. 
Chuyên đề 2: Liªn x« vµ liªn bang nga – nh÷ng chÆng ®­êng lÞch sö
I. Mục đích
- Nâng cao và bổ ...  những vật liệu mới, những công cụ mới; cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp; chinh phục vũ trụ để phục vụ cho cuộc sống trên Trái đất
            Trải qua một nửa thế kỉ, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ hai của nhân loại đã thu được những thành tựu to lớn và kì diệu.
            Trước hết, trong lĩnh vực khoa học cơ bản, con người đã thu được những thành tựu hết sức to lớn, đánh dấu những bước nhảy vọt chưa từng có trong lịch sử ở các ngành toán học, vật lí học, hóa học, sinh vật học. Các nhà khoa học đã có những phát minh vô cùng quan trọng, như sóng điện từ, trường điện từ, tia rơnghen và hiện tượng phóng xạ, sự phân chia của nguyên tử, bản chất hạt sóng của ánh sáng, khởi thảo thuyết lượng tử và thuyết tương đối học, tìm ra những định luật và định lí mới về toán học, lí học, hoá học và sinh vật học v.v
            Toán học đã có nhiều phát minh lớn, phát triển thành nhiều ngành riêng biệt, đang ngày càng thâm nhập sâu vào các ngành khoa học khác và tạo thành quá trình toán học hoá khoa học (trong lĩnh vực vật lí học, hoá học, sinh vật học, thậm chí ngôn ngữ học, sử học, khoa học kinh tế v.v cũng đang được toán học hoá).
            Hoá học đã có những thành tựu to lớn, đang tạo ra một sức mạnh tổng hợp tác động vào kỹ thuật và sản xuất, mở ra những phương pháp hoàn toàn mới để sản xuất ra những “vật liệu hoá học” mà những vật liệu này có nhiều mặt ưu việt hơn so với vật liệu tự nhiên và đặc biệt nó sẽ thay thế  các vật liệu tự nhiên đang cạn kiệt dần.
            Với những phát minh lớn về lí thuyết hạt nhân, về sóng điện từ, trường điện từ, hiện tượng phóng xạ, vật lí học đã góp phần quan trọng trong việc sản xuất ra những công cụ mới, vật liệu mới, nguồn năng lượng nguyên tử và những phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc hết sức hiện đại.
            Cuộc cách mạng trong sinh vật học đã dẫn đến cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp và sự ra đời của Phỏng sinh học và công nghệ sinh học, bao gồm công nghệ sinh hoá, y và dược sinh hoá, công nghệ sinh vật chế biến thực phẩm, công nghệ sinh học chống ô nhiễm và bảo vệ môi trường.
            Đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện nay là cuộc cách mạng khoa học và cách mạng kỹ thuật gắn bó chặt chẽ với nhau, hầu như tất cả những khuynh hướng chủ yếu của khoa học cơ bản hiện nay đều gắn liền với lĩnh vực này hay lĩnh vực khác của kỹ thuật và sản xuất như khoa vật lí hạt nhân và năng lượng nguyên tử, môn điều khiển học và tự động học, môn phỏng sinh học v.v
            Thứ hai, các nhà khoa học đã có những phát minh lớn về những công cụ sản xuất mới, trong đó có ý nghĩa to lớn nhất là sự ra đời của máy tính, máy tự động và hệ thống máy tự động.
            Con người thông minh nhất trong 1 phút cũng chỉ giải được một số phép tính, nhưng ngày nay, với máy tính hệ hiện đại nhất, con người có thể giải được hàng chục triệu phép tính trong một giây. Máy tính làm thơ, máy tính sáng tác nhạc, máy tính xem số tử vi v.v Ngày nay, máy tính được coi như “trung tâm thần kinh” kỹ thuật, thay con người nắm toàn bộ quá trình sản xuất liên tục, kể cả chức năng điều khiển. Máy tự động và hệ thống máy tự động, sau khi máy tính ra đời, dẫn tới tự động hoá quá trình sản xuất, nghĩa là máy tự động không chỉ “làm việc” thay con người, mà còn có thể “nghĩ” và “giải quyết” công việc thay con người.
            Các nhà khoa học còn sáng chế ra “người máy” (rôbôt) và ngày nay rôbôt đã đảm nhiệm những công việc mà con người không thể làm được hoặc không nên làm: rôbôt trèo tường, lau cửa sổ ở những toà nhà cao trọc trời, rôbôt lặn sâu xuống đại dương tới 6 – 7 nghìn mét, rôbôt làm việc trong các nhà máy điện nguyên tử ở những bộ phận dễ bị nhiễm xạ
            Ngoài ra, người ta còn sáng chế ra hàng loạt những công cụ mới có tính năng hết sức hiện đại nhằm phục vụ cho sản xuất trong tất cả các ngành công nghiệp và xây dựng.
            Thứ ba, trong tình hình nguồn năng lượng thiên nhiên (than, dầu mỏ) đang vơi cạn dần và trở nên khan hiếm một cách đáng lo ngại (sinh hoạt của con người càng nâng cao thì nhu cầu năng lượng càng tăng lên với một nhịp độ đáng sợ. Chỉ mười năm trở lại đây, nhu cầu năng lượng trên thế giới đã tăng hơn 2 lần, trong đó tiêu thụ năng lượng điện tăng hơn 3,6 lần) thì con người đã tìm ra những nguồn năng lượng mới hết sức phong phú, vô tận: năng lượng nguyên tử, năng lượng nhiệt hạch, năng lượng mặt trời, năng lượng thuỷ triều Trong những nguồn năng lượng kể trên, năng lượng nguyên tử và năng lượng mặt trời đang dần dần được con người sử dụng một cách phổ biến, và trong một tương lai không xa, nó sẽ thay thế dần ngành nhiệt điện và thuỷ điện.
            Thứ tư, sáng chế ra những vật liệu mới trong tình hình vật liệu tự nhiên đang cạn kiệt dần trong thiên nhiên.
            Từ rong biển, người ta có thể chế tạo ra khoảng 40 loại công nghệ phẩm tiêu dùng hàng ngày. Đã có thể sản xuất ra những thực phẩm, như thịt gà, thịt lợn, thịt bò và nhiều thức ăn hàng ngày một cách hoàn toàn nhân tạo. Con người hiện nay mặc quần áo phần lớn bằng vải sợi nhân tạo.
            Trong những vật liệu mới mà con người sáng chế ra những năm gần đây, chất pôlome (chất dẻo) đang giữ một vị trí rất quan trọng trong đời sống hàng ngày, cũng như trong tất cả mọi ngành công nghiệp. Có nhiều chất dẻo nhẹ hơn nhôm 2 lần, nhưng về độ bền chúng lại hơn hẳn nhiều loại thép và có thể sử dụng để chế tạo vỏ xe tăng, máy bay, các động cơ tên lửa và con tàu vũ trụ.
            Thứ năm, là cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp. Do tác động tổng hợp của các ngành khoa học, đặc biệt là sinh vật học và hoá học, nông nghiệp đang tiến những bước nhẩy vọt nhờ cơ khí hoá, điện khí hoá, hoá học hoá, thuỷ lợi hoá với những biện pháp lai tạo giống, chống sâu bệnh v.v Nhờ cuộc “cách mạng xanh” này, con người đã tìm ra phương hướng để có thể khắc phục được nạn đói ăn, thiếu thực phẩm kéo dài từ bao thế kỉ.
            Thứ sáu, con người đã đạt được những tiến bộ thần kì trong các lĩnh vực giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Trên không, đã xuất hiện những máy bay hành khách siêu âm khổng lồ (“TU – 186”, “Côngcoocđơ”, “Bôing 176” v.v). Các tàu hoả ngày nay đã đạt tốc độ chạy nhanh tới 300 km/giờ và tới đích đúng giờ tuyệt đối. Trên mặt biển, con người đã đóng những con tàu chở dầu 1 triệu tấn v.v Nhờ các hệ thống vệ tinh nhân tạo, loài người đã có những phương tiện thông tin liên lạc và phát sóng truyền hình hết sức hiện đại.
            Ngoài ra, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện nay còn đem lại cho con người một thành tựu diệu kì – thành tựu chinh phục vũ trụ.
            Ngày nay, con người đã đưa được người lên thám hiểm Mặt trăng, phóng những con tàu vũ trụ, những tàu con thoi bay nhiều ngày vòng quanh Trái đất, nhận được những tin tức của Sao Kim, Sao Hoả. Khoa học vũ trụ và du hành vũ trụ đã và  đang phục vụ đắc lực trên nhiền phương diện cho cuộc sống của con người trên Trái đất.
Câu hỏi:   - Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện nay là gì?
3. Vị trí và ý nghĩa
            Trong nửa thế kỉ qua, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đã có một vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Thứ nhất, những thành tựu kì diệu của cách mạng khoa học – kỹ thuật đã làm thay đổi một cách cơ bản các nhân tố sản xuất như công cụ và công nghệ, nguyên liệu, năng lượng, thông tin, vận tải, trong đó sự thay đổi về công cụ và công nghệ có ý nghĩa then chốt. Cũng nhờ đó, con người đã tạo ra được những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn những lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia cộng lại.
            Chỉ trong 20 năm (1970 – 1990), sản xuất của thế giới năm 1990 đã tăng gấp hơn hai lần so với năm 1970, ngang với 2000 lần khối lượng của cải vật chất sản xuất ra trong 230 năm của thời đại công nghiệp (tức từ năm 1740 đến năm 1970). Với đà này, trong vài ba thập niên tới, sản xuất vật chất trên thế giới sẽ tăng lên với tốc độ và khối lượng chưa từng có.
            Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đã và đang đưa loài người chuyển sang một nền văn minh mới, sau nền văn minh nông nghiệp đến nền văn minh công nghiệp, rồi nền văn minh mới hiện nay đang được gọi dưới những tên khác nhau như “văn minh hậu công nghiệp”, “văn minh truyền tin”, “văn minh trí tuệ” Nhân loại đang thực sự bước vào một nền văn minh mới mà con người có thể phát triển hơn nữa sự sáng tạo trong lao động, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và tiến lên làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống.
            Thứ ba, cách mạng khoa học – kỹ thuật với những thành tựu to lớn của nó đã khiến cho nền kinh tế thế giới ngày càng được quốc tế hoá cao, đang hình thành một thị trường toàn thế giới bao gồm tất cả các nước có chế độ xã hội khác nhau vừa đấu tranh, vừa hợp tác với nhau trong cùng tồn tại hoà bình. Mặt khác, sự giao lưu, trao đổi về văn hoá, du lịch, văn học nghệ thuật , sự hợp tác với nhau trên các lĩnh vực y tế, dân số, giáo dục, khoa học – kỹ thuật giữa các quốc gia các dân tộc trên hành tinh ngày càng phát triển và ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn.
            Thứ tư, bên cạnh những thành tựu kì diệu đưa con người tiến những bước nhảy vọt, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện nay đã và đang gây nên những hậu quả tiêu cực mà hiện nay con người vẫn chưa thể khắc phục được: việc chế tạo ra những vũ khí huỷ diệt (bom nguyên tử, bom hoá học, vũ khi vi trùng, máy bay tàng hình, tên lửa vượt đại châu) nhằm sát hại con người và nạn ô nhiễm môi sinh, những bệnh tật, tai nạn lao động, tai nạn giao thông do tiến bộ khoa học – kỹ thuật mang lại.
Câu hỏi:   
    1. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện nay đã có một vị trí và ý nghĩa như thế nào đối với đời sống của con người? Bên cạnh những mặt tích cực là chính, nó còn có những mặt tiêu cực nào không?
    2. Hãy trình bãy những thành tựu khoa học – kỹ thuật của Việt Nam trong mấy thập niên qua.
    3. Thế hệ trẻ phải làm gì để đưa trình độ khoa học – kỹ thuật của Việt Nam vươn lên đuổi kịp trình độ quốc tế?

File đính kèm:

  • docgiao_an_lich_su_lop_12_tu_chon_chuong_trinh_ca_nam_nguyen_va.doc