Giáo án dạy thêm Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Đoàn thuyền đánh cá"

1/Tác giả

- Nhắc đến Huy Cận, người ta liên tưởng ngay đến nhà thơ của vũ trụ, của thiên nhiên. Thơ của ông trước Cách mạng tháng Tám thường thấm đẫm nỗi buồn.

- Sau những ngày hòa bình được lặp lại trên miền Bắc, cũng cảm hứng lãng mạn nhưng thơ ông trở nên ấm áp và tràn đầy niềm tin yêu vào con người. « Đoàn thuyền đánh cá » được viết năm 1958 nhân chuyến đi thực tế ở Hồng Gai là một bài thơ như thế!

- Bài thơ đã khắc họạ cảnh tượng đoàn thuyền đánh cá trong đêm tối, qua đó ngợi ca sự giàu đẹp của biển quê hương và vẻ đẹp của những người lao động mới.

- Điều đó đã được thể hiện khá rõ nét trong đoạn trích (trích dẫn đề) .

 2/Bố cục:Bài thơ gồm 7 khổ, mỗi khổ 4 câu thơ 7 chữ, được bố cục theo hành trình của một chuyến ra khơi đánh cá.

- Hai khổ thơ đầu: cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn và tâm trạng náo nức của người đi biển.

- Bốn khổ thơ tiếp (khổ 3 -> 6): cảnh lao động của đoàn thuyền đánh cá giữa không gian biển trời ban đêm.

- Khổ cuối: cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh lên.

3/Cảm hứng bao trùm của bài thơ

- Trong bài thơ có 2 nguồn cảm hứng bao trùm và hài hoà với nhau: cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ và cảm hứng lao động, về những người lao động mới đang xây dựng đất nước.

o Công việc lao động đánh cá của ngư dân Quảng Ninh trên biển Hạ long được miêu tả trong sự thống nhất hoà quyện với thiên nhiên trời biển, trăng sao bát ngát, kì vĩ, bay bổng.

o Cảm hứng thống nhất ấy tạo nên vẻ đẹp riêng của bài thơ và được thể hiện trong cả bài, trong từng khổ thơ, từng dòng thơ.

 

docx 8 trang cucpham 02/08/2022 780
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án dạy thêm Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Đoàn thuyền đánh cá"", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo án dạy thêm Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Đoàn thuyền đánh cá"

Giáo án dạy thêm Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Đoàn thuyền đánh cá"
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ -Huy Cận-
I/Tìm hiểu chung
1/Tác giả
Nhắc đến Huy Cận, người ta liên tưởng ngay đến nhà thơ của vũ trụ, của thiên nhiên. Thơ của ông trước Cách mạng tháng Tám thường thấm đẫm nỗi buồn. 
Sau những ngày hòa bình được lặp lại trên miền Bắc, cũng cảm hứng lãng mạn nhưng thơ ông trở nên ấm áp và tràn đầy niềm tin yêu vào con người. « Đoàn thuyền đánh cá » được viết năm 1958 nhân chuyến đi thực tế ở Hồng Gai là một bài thơ như thế!
Bài thơ đã khắc họạ cảnh tượng đoàn thuyền đánh cá trong đêm tối, qua đó ngợi ca sự giàu đẹp của biển quê hương và vẻ đẹp của những người lao động mới. 
Điều đó đã được thể hiện khá rõ nét trong đoạn trích (trích dẫn đề)..
 2/Bố cục:Bài thơ gồm 7 khổ, mỗi khổ 4 câu thơ 7 chữ, được bố cục theo hành trình của một chuyến ra khơi đánh cá.
Hai khổ thơ đầu: cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn và tâm trạng náo nức của người đi biển.
Bốn khổ thơ tiếp (khổ 3 -> 6): cảnh lao động của đoàn thuyền đánh cá giữa không gian biển trời ban đêm.
Khổ cuối: cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh lên.
3/Cảm hứng bao trùm của bài thơ
Trong bài thơ có 2 nguồn cảm hứng bao trùm và hài hoà với nhau: cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ và cảm hứng lao động, về những người lao động mới đang xây dựng đất nước.
Công việc lao động đánh cá của ngư dân Quảng Ninh trên biển Hạ long được miêu tả trong sự thống nhất hoà quyện với thiên nhiên trời biển, trăng sao bát ngát, kì vĩ, bay bổng.
Cảm hứng thống nhất ấy tạo nên vẻ đẹp riêng của bài thơ và được thể hiện trong cả bài, trong từng khổ thơ, từng dòng thơ.
II/PHÂN TÍCH
1/ Khổ 1+2: Cảnh hoàng hôn trên biển và đoàn thuyền đánh cá ra khơi 
Hai câu đầu: Hoàn cảnh ra khơi : Mở đầu tác phẩm là hai câu thơ tả cảnh hoàng hôn trên biển thật độc đáo, thú vị.“Mặt trời xuống biển như hòn lửa/Sóng đã cài then đêm sập cửa” 
Với cảm hứng vũ trụ quen thuộc của Huy Cận, với nghệ thuật nhân hóa, so sánh, liên tưởng bất ngờ, tác giả đã gợi tả hình ảnh mặt trời như một hòn lửa đỏ rực khổng lồ còn vũ trụ thì như một ngôi nhà mà màn đêm là cánh cửa còn sóng là then cài.
Điều này làm cho cảnh biển về đêm vốn bao la, huyền bí mà giờ lại trở nên gần gũi, thân thiết với con người. 
Đồng thời nó gợi sự bình yên đối với người dân chài bởi họ ra khơi mà như đi trong ngôi nhà của mình – ngôi nhà thiên nhiên vĩ đại mà mẹ tạo hóa đã hào phóng ban tặng cho con người.
Hai vần trắc: “lửa” – “cửa” liền nhau, nối nhau gợi người đọc hình dung đêm tối bao trùm biển khơi một cách đột ngột, hòn lửa mặt trời lặn khuất nhanh chóng phía chân trời, chìm xuống lòng biển thật hùng vĩ. Phác họa một bức tranh phong cảnh kì diệu như thế, hẳn nhà thơ phải có cặp mắt thần và trái tim vô cùng nhạy cảm.
Hai câu sau: Màn đêm đã khép lại không gian của một ngày, giữa lúc vũ trụ, đất trời như chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thì ngược lại con người bắt đầu hoạt động: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”.-> ca ngợi được tinh thần lao động khẩn trương, tích cực của con người.
Câu thơ có nhịp nhanh, mạnh như một quyết định dứt khoát, gợi cảnh đoàn ngư dân ào xuống, đẩy thuyền ra khơi. Đây là sự ra đi tràn đầy khí thế của một tập thể « đoàn thuyền », không phải là một vài chiếc thuyền lưa thưa, rời rạc. 
Từ « lại »:cho ta thấy đây là công việc thường nhật của họ. Chuyến ra khơi này chỉ là một trong rất nhiều chuyến ra khơi đánh cá trên biển đêm của những người ngư dân ở đây. Điều đó chứng tỏ nhịp điệu lao động của dân chài đã ổn định, đi vào nề nếp trong cuộc sống hòa bình. 
Và mỗi chuyến ra khơi là bao nhiêu hào hứng và hi vọng, là niềm vui lao động: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. 
Đây là một hình ảnh nói quá thật thơ mộng, khoẻ khoắn và lãng mạn.Nó gợi hình ảnh những chàng trai biển đang vừa chèo thuyền ra khơi vừa cất cao tiếng hát. Tiếng hát khoẻ khoắn, vang xa, bay cao, cùng hòa với gió, thổi căng cánh buồm. 
Đó là tiếng hát chứa chan niềm vui của người dân lao động được làm chủ thiên nhiên, đất nước, công việc mà mình yêu thích và gắn bó.
Chao ôi! Chỉ một tiếng hát thôi mà nói được bao điều về thân phận con người qua hai chế độ. Ở đây không còn nữa cái cảm nhận từ nghìn xưa về sự nhỏ bé, yếu đuối của con người trước biển cả bí ẩn, chứa đầy sức mạnh tàn phá, hủy diệt vô cùng dữ dội mà chính chi tiết lãng mạn độc đáo ấy lại biểu hiện khí thế mạnh mẽ của những con người trong lao động tập thể. 
Câu hát của người lao động không chỉ bộc lộ niềm vui, niềm hứng khởi lao động mà nó còn mang theo niềm mong mỏi thiết tha về một chuyến ra khơi đầy ắp cá tôm.Hát rằng: cá bạc biển Đông....cá ơi!
Đại từ xưng hô « ta » vang lên đầy tự hào, kiêu hãnh. Nó không còn là cái tôi nhỏ bé đơn côi như những ngày xưa nữa mà là cái « ta » tập thể đầy sức mạnh. 
Ở đoạn này, nhịp thơ đọc lên nghe sôi nổi, hào hứng như chính tâm trạng sảng khoái, say sưa, phấn chấn của những con người làm việc với tất cả trí tuệ và tình yêu lao động, yêu biển yêu nghề. 
Cảnh ra khơi của người đi biển thật kì vĩ, tràn đầy khí thế.
Khắc họa được một bức tranh như vậy chắc chắn tác giả phải là người yêu thiên nhiên, yêu biển, yêu lao động thiết tha!
2/ Khổ 3,4,5,6: Cảnh đánh cá trên biển
a/Khổ 3: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển đêm thật đẹp, kỳ vĩ
Với khả năng quát sát miêu tả tinh tế, hòa cùng với cảm hứng vũ trụ thật mãnh liệt, Huy Cận đã tái hiện vẻ đẹp cận cảnh đoàn thuyền ra khơi hùng tráng, thơ mộng trong đêm trăng:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng	 
Lướt giữa mây cao với biển bằng, 	
Ra đậu dặm xa dò bụng biển, 	
Dàn đan thế trận lưới vây giăng. 	
Dưới sự hình dung và tưởng tượng bay bổng, hình ảnh con thuyền đánh cá hiện lên thật đẹp, thật độc đáo, mang tầm vóc vũ trụ
người lái thì là gió trời; cánh buồm thì là vầng trăng và con thuyền đang bay giữa không trung (lướt giữa mây cao), như có thể chạm vào mây trời. 
Nó khác hẳn với con thuyền cô đơn, nhỏ bé, lạc lõng giữa không cùng trời đất mênh mang trong bài thơ "Tràng giang" trước cách mạng:
Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp
 Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
 Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Còn ở đây, con thuyền không hề nhỏ bé, đơn độc mà lại rất lớn lao, làm chủ cả biển trời bao la, rộng lớn. 
Bức tranh không gian của biển cả được mở rộng ra ba chiều: chiều cao của mây, chiều sâu của bụng biển, chiều rộng của biển khơi có tác dụng tôn thêm tầm vóc lớn lao của con thuyền và con người lao động. 
Khổ thơ được sử dụng dày đặc: “lái – lướt- đậu – dò – dàn đan – vây giăng” 
có tác dụng diễn tả hành động đánh cá rất nhanh, rất khẩn trương của những đoàn thuyền đánh cá trên biển. 
Hai câu sau sử dụng những hình ảnh nhân hóa « dò bụng biển”, “dàn đan thế trận » vừa gợi tả được sự khéo léo của người dân chài vừa cho thấy tất cả sự vất vả, hiểm nguy của những con người gắn bó cuộc đời mình với ngư trường, với biển cả.
Hình ảnh thơ ở khổ này thật lãng mạn bay bổng . Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên. 
Người đọc tưởng như đuợc cùng tác giả hòa vào cái tâm trạng lâng lâng, sảng khoái của những con người đang trong tư thế làm chủ vùng biển của đất nước. 
b/Khổ 4: Biển giàu và đẹp: Sự giàu có, đẹp đẽ của các loài cá biển được miêu tả thật đặc sắc, duyên dáng, lấp lánh sắc màu, như bức tranh sơn mài trong bể cá khổng lồ:
“Cá nhụ, cá chim cùng cá đé,
Cá song lập lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy, trăng vàng choé,
Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long.”
Biện pháp liệt kê được sử dụng trong khổ thơ này cho thấy biển thật giàu có với nhiều loại cá: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song. Đây đều là những loại cá quí, ngon, nổi tiếng.
Biển không chỉ giàu mà còn rất đẹp – một vẻ đẹp thơ mộng. 
Khi màn đêm buông xuống, trăng lên, những màu sắc của các loại cá lại càng rực rỡ. Huy Cận đã sử dụng một loạt tính từ chỉ màu sắc: lấp lánh, đen hồng, vàng choé. Nghệ thuật phối sắc màu rất tài tình này làm cho khổ thơ như một bức tranh sơn mài tuyệt đẹp. 
Câu thơ “Cá song....hồng” sử dụng thành công nghệ thuật ẩn dụ. Nhìn h/a những con cá song với vẩy đen, hồng lấp lánh trên biển, chan hòa với ánh trăng vàng chóe tác giả tưởng như những ngọn đuốc đen hồng đang lao đi trong luồng nước. Chi tiết này gợi nên vẻ đẹp kì diệu của biển.
Vẻ đẹp của biển đêm còn được diễn tả bằng hình ảnh nhân hóa “Đêm thở.Hạ Long”. Ở đây, đêm được miêu tả như một sinh vật đại dương đang thở. Đây quả là một hình ảnh lạ, một sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận làm cho cảnh biển đêm thật sinh động.
Câu thơ cuối qua phép nhân hóa, khiến cho thấy vũ trụ hiện lên như một người khổng lồ, biển cả như một cái lồng ngực đang phập phồng những hơi thở đều đặn. Những ánh sao đêm in xuống mặt nước, thủy chiều xô bóng sao dưới mặt nước mà tạo thành sao lùa nước Hạ Long. Và trong hình dung của nhà thơ, ấy chính là tiểng thở của đêm, của biển cả.
TL: Bằng sự cảm nhận tinh tế , bằng những liên tưởng, tưởng tượng vô cùng phong phú và phải có một tình yêu thiên nhiên tha thiết Huy Cận mới viết nên những vần thơ đẹp như vậy.
c/Khổ 5: Biển không chỉ giàu, đẹp, mà còn đầy ân tình
“Ta hát bài ca gọi cá vào, 	
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao, 	
Biển cho ta cá như lòng mẹ, 	
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào. “
Mở đầu khổ thơ này là tiếng hát gọi cá của người dân chài cất lên giữa bao la trời nước “Ta hát vào”. Tiếng hát ấy gợi sự thân thiết, niềm vui, niềm mong ước đánh bắt được nhiều cá để làm giàu cho Tổ quốc.
“Gõ cao” là hình ảnh lãng mạn đầy chất thơ, không phải con người gõ thuyền để xua cá vào lưới mà là trăng ở trên cao gõ. Trăng ở đây được nhân hoá liên tưởng dưới màn đêm, ánh trăng sáng soi trên bầu trời in hình xuống mặt nước và trở thành biển trăng, sóng xô bóng trăng như gõ vào mạn thuyền tạo thành nhịp trăng để xua cá vào lưới. Vì thế tiếng hát của con người hòa cũng với thiên nhiên vũ trụ, tạo cảm giác cho người đọc thấy rằng, công việc đánh bắt cá tưởng chừng vô cùng là nặng nhọc, vất vả nhưng chính âm thanh tiếng hát đã biến cái khó khăn, vất vả ấy trở thành bài ca lao động đầy mạnh mẽ, hăng say,  
Hình ảnh này làm đẹp thêm công việc đánh cá trên biển.
Trong niềm vui lao động, những người dân chài không quên được sự ưu ái của thiên nhiên- biển cả đối với họ:“Biển cho ta cá như lòng mẹ/ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.” 
Đây là một so sánh thật đẹp: Lòng biển bao la, rộng lớn như lòng mẹ - nguồn tình cảm yêu thương vô hạn đã nuôi dưỡng mỗi con người hôm nay và mai sau. 
Câu thơ cho thấy được tình cảm bao la, vĩ đại, cao cả của người mẹ biển cả thiên nhiên. Qua đó thể hiện sự biết ơn, sự gắn bó sâu sắc của những người ngư dân với biển yêu thương.
 Âm điệu thơ ở đây không sôi nổi, dứt khoát, mạnh mẽ mà trầm lắng, ấm áp, ngọt ngào, da diết như làn điệu ca dao trong bài ca lao động say sưa, thơ mộng và đầy lòng biết ơn.
d/Khổ 6: Cảnh kéo lưới
Sau một đêm lao động vất vả, những ngư dân đang thực hiện các thao tác cuối cùng trước khi trở về đất liền:
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng	
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng 	
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông 	
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng. 
"Sao mờ" là khoảng thời gian mặt trời đã bắt đầu rạng sáng, đó cũng chính lúc công việc của người ngư dân phải khẩn trương, mau lẹ.
Cảnh lao động hiện lên như một bức tranh sống động, với những nét tạo hình đầy khỏe khắn, gân guốc với hình ảnh trung tâm là con người lao động. 
Từ “xoăn” trong câu thơ vừa gợi lên hình ảnh những bắp tay rắn chắc của những chàng trai biển khi kéo lưới vừa cho thấy những mẻ cá bội thu, nặng trĩu và cả sự hăm hở, hồ hởi của ngư dân muốn thấy được kết quả lao động của mình.
Thành quả của họ còn được tác giả miêu tả thật đẹp, thật hay trong câu thơ “Vẩy bạc đuôi vàng, lóe rạng đông”. 
Ánh nắng hồng của bình minh hòa cùng với sắc màu “bạc”, “vàng” của cá có tác dụng tô đậm thêm sự giàu có và quí giá của biển cả vừa thể hiện thái độ trân trọng của những người lao động trước những thành quả đạt được.
 Một lần nữa khổ thơ cho thấy nghệ thuật sử dụng màu sắc của nhà thơ rất điêu luyện. Sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới ánh rạng đông đều được miêu tả thật tuyệt đẹp.
Câu thơ “Lưới xếp / buồm lên/ đón nắng hồng” với cách ngắt nhịp 2/2/3, với cách sử dụng liên tiếp ba động từ (xếp, lên, đón), 
tác giả cho thấy người ngư dân đang khẩn trương thực hiện những thao tác cuối cùng trước khi trở về đất liền. Khi lưới xếp lên khoang cũng là lúc đoàn thuyền trở về đón ánh bình minh, kết thúc một ngày lao động vất vả nhưng thu lại bao thành quả. 
Hình ảnh “nắng hồng” ở cuối khổ thơ biểu tượng cho niềm vui, niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai, sự hồi sinh mới mẻ của đất nước sau chiến tranh.
Khổ thơ này đã cho thấy tâm trạng phấn khởi của người đánh cá, họ như muốn chia sẻ niềm vui của mình với bình minh, với mặt trời.
3/Khổ cuối: Cảnh đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về trong bình minh rực rỡ
Câu hát căng buồm với gió khơi, 
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Bốn câu cuối này dựng lên quang cảnh kì vĩ về cuộc chạy đua của con người với mặt trời.“Câu hát căng buồm với gió khơi” được lặp lại như một điệp khúc. Đây là lần thứ ba, nhà thơ nhắc lại câu hát. 
Lần thứ nhất tả tiếng hát ra khơi, tiếng hát phấn chấn, hồ hởi lên đường: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi". 
Lần thứ hai tả tiếng hát lúc đánh cá, tiếng hát say mê lao động và ngợi ca biển với bao ân tình sâu nặng thiết tha: “Ta hát bài ca gọi cá vào.
Và lần thứ ba này là tiếng hát trở về, tiếng hát của niềm vui thắng lợi sau một chuyển đi biển may mắn, tôm cá đầy khoang, thành quả lao động to lớn. 
Câu thơ “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” sử dụng hình ảnh hoán dụ “đoàn thuyền” và biện pháp nhân hoá “chạy dua”.
Những biện pháp nghệ thuật này đã gợi liên tưởng đoàn thuyền và mặt trời như cùng tham gia vào một cuộc chay đua. Ở đó, con người và thiên nhiên cùng hòa hợp trong sức sống của một ngày mới. 
Đồng thời, nó cũng giúp tác giả khắc họa rất thành công không khí lao động hăng say, khẩn trương của những con người lao động mới – những con người làm chủ thiên nhiên, chiến thắng thiên nhiên. 
Nếu đoàn thuyền ra đi trong cảnh « mặt trời xuống biển như hòn lửa » thì giờ đây họ trở về trong cảnh « mặt trời đội biển nhô màu mới ».
“Mặt trời  đội biển » là hình ảnh nhân hóa- một nét sáng tạo độc đáo của Huy Cận.
 Mặt khác, hình ảnh « màu mới » của không gian cũng gợi cho ta nhiều liên tưởng. Đây không chỉ là màu mới của ngày mới mà còn là màu mới của cuộc đời hồng tươi sắc thắm trên miền Bắc không còn bóng quân xâm lược. 
Hình ảnh “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” là cách nói quá, vừa tả cảnh biển tráng lệ lúc rạng đòng, vừa tả cảnh được mùa cá (thậm xưng) đẹp không chỉ là bức tranh thu hoạch được mùa cá mà còn vẽ lên cả cảnh tượng ấm no, hạnh phúc của nhân dân vùng biển. 
Nói rằng biển quê ta giàu đẹp. Nói rằng lao động là niềm vui sáng tạo. Nói rằng khi người lao động làm chủ cuộc đời thì mới có ấm no hạnh phúc. Cả ba điều ấy, đã được HC nói rất hay khổ cuối và cả bài thơ này
Với cách sử dụng màu sắc, với cách vận dụng các thủ pháp nghệ thuật như ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa và thậm xưng, Huy Cận đã sáng tao được nhiều hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa. Một không gian tráng lệ tràn ngập niềm vui câu hát. Một rạng đông trên biển và một rạng đông trong lòng người vì “đất nở hoa’' và “biển đang hát”...
Tất cả đã đem lại âm điệu tươi vui, khoẻ khoắn của một khúc ca lao động đầy hào hứng, say mê.
III/TỔNG KẾT
Bằng âm điệu thơ sôi nổi, khỏe khoắn, hình ảnh thơ tráng lệ, ngôn ngữ độc đáo mới lạ ; cùng với bút pháp lãng mạn tài hoa; các khổ thơ trên đã giúp ta phần nào cảm nhận được nét đẹp của biển cả và sức sống mãnh liệt của những con người lao động cùng với tâm trạng yêu đời, thái độ ngợi ca của thi sĩ đối với cuộc sống mới.
Nói rằng lao động là niềm vui sáng tạo. Nói rằng biển quê ta giàu đẹp. Nói rằng khi người lao động làm chủ cuộc đời thì mới có ấm no hạnh phúc. Cả ba điều ấy, Huy Cận đã nói được rất hay trong bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá”
Qua đây đã truyền cho người đọc một niềm tin và sức sống mới, giúp ta thêm yêu những người lao động, tự hào hơn về quê hương mình.

File đính kèm:

  • docxgiao_an_day_them_ngu_van_lop_9_van_ban_doan_thuyen_danh_ca.docx