Chuyên đề Phụ đạo học sinh yếu, kém môn Ngữ văn 6

Xuất phát từ một thực trạng là học sinh yếu kém đầu vào của học sinh lớp 6 ngày càng tăng. Đặc biệt là môn Ngữ Văn. Do đó, làm thế nào để có thể giúp cho học sinh nắm vững được những kiến thức cơ bản của môn học, nhất là đối với học sinh yếu. Ở các em có sự khác biệt nhau về: khả năng tiếp thu bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ.v.v. Cần xem xét những học sinh này với những đặc điểm vốn có của các em để tìm ra những biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả tối đa, tránh cho các em bị rơi vào những khó khăn thường trực trong học tập. Đó chính là điều mà bản thân tôi muốn trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp đỡ đối tượng học sinh yếu, kém.

Vấn đề học sinh yếu hiện nay luôn được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người giáo viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết nghiên cứu những phương pháp tối ưu nhất, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu, kém. Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn với không ít giáo viên nói chung, đối với bản than tôi nói riêng. Nhưng ngược lại, nếu giải quyết được những vấn đề này cũng là góp phần xây dựng trong bản thân tôi một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.

Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu không chỉ là trách nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy nói chung, của bản thân tôi nói riêng. Mặc khác, nếu quan tâm hơn đến việc giúp đỡ học sinh yếu, kém thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp, công tác duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục THCS ở địa phương.

 

doc 9 trang cucpham 02/08/2022 320
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Phụ đạo học sinh yếu, kém môn Ngữ văn 6", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Phụ đạo học sinh yếu, kém môn Ngữ văn 6

Chuyên đề Phụ đạo học sinh yếu, kém môn Ngữ văn 6
CHUYÊN ĐỀ
PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU, KÉM MÔN NGỮ VĂN 6
 I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Múc đích yêu cầu
Xuất phát từ một thực trạng là học sinh yếu kém đầu vào của học sinh lớp 6 ngày càng tăng. Đặc biệt là môn Ngữ Văn. Do đó, làm thế nào để có thể giúp cho học sinh nắm vững được những kiến thức cơ bản của môn học, nhất là đối với học sinh yếu. Ở các em có sự khác biệt nhau về: khả năng tiếp thu bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ.v.v... Cần xem xét những học sinh này với những đặc điểm vốn có của các em để tìm ra những biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả tối đa, tránh cho các em bị rơi vào những khó khăn thường trực trong học tập. Đó chính là điều mà bản thân tôi muốn trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp đỡ đối tượng học sinh yếu, kém.
Vấn đề học sinh yếu hiện nay luôn được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người giáo viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết nghiên cứu những phương pháp tối ưu nhất, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu, kém. Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn với không ít giáo viên nói chung, đối với bản than tôi nói riêng. Nhưng ngược lại, nếu giải quyết được những vấn đề này cũng là góp phần xây dựng trong bản thân tôi một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.
Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu không chỉ là trách nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy nói chung, của bản thân tôi nói riêng. Mặc khác, nếu quan tâm hơn đến việc giúp đỡ học sinh yếu, kém thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp, công tác duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục THCS ở địa phương.
Với những thực tế trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi giảng dạy, bản thân luôn chú ý, quan tâm đến việc giúp đỡ  học sinh yếu. Đây sẽ là nền tảng, là động lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy đủ, được trau dồi tri thức và tiếp tục vươn xa trên con đường học vấn của mình.
Từ những lí do nêu trên, bản thân tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Phụ đạo học sinh yếu kém” để tiếp tục áp dụng vào thực tế lớp 6C nói riêng và học sinh khối 6 trường THCS Hòa chung nói chung.
2. Thực trạng ban đầu
Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy, bản thân tôi cũng nắm bắt và thấu hiểu được tâm lí lứa tuổi học sinh THCS. Đặc biệt là học sinh lớp 6, mới thay đổi môi trường học tập: về bạn bè, thầy cô, các môn học, cách học, nên các em còn bỡ ngỡ, cũng như cách lĩnh hội tri thức còn hạn chế. Cụ thể ở đây là môn Ngữ văn.Vì thể, ngày từ đầu năm học chúng ta phải tạo cho các em có được một môi trường học tập thân thiện, gần gũi thì các em sẽ ham thích, say mê và nỗ lực trong học tập. Điều này có tác động rất lớn đến các em là học sinh yếu, kém giúp các em tự tin hơn trong việc học của mình. Việc phụ đạo học sinh yếu, kém hay nói khác hơn, để nâng cao chất lượng giáo dục không chỉ là trách nhiệm của nhà trường, gia đình mà là của toàn xã hội. Vì vậy, đây là động lực để tôi luôn cố gắng tìm ra được những tồn tại và nguyên nhân làm cho chất lượng phụ đạo học sinh yếu môn Ngữ văn chưa đạt hiệu quả cao. Và từ đó sẽ có những biện pháp khắc phục phù hợp. Đây cũng chính là mục đích của đề tài này.
3. Giải pháp đã sử dụng
Để nghiên cứu đề tài này một cách khoa học và đạt kết quả cao, tôi đã vạch ra các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu lý luận về nhiệm vụ học tập của học sinh, đi sâu vào các nội dung có liên quan đến việc xây dựng và thực hiện kế hoạch kế hoạch tự học của học sinh, cũng như việc xây dựng và thực hiện kế hoạch phụ đạo học sinh yếu, kém môn Ngữ văn lớp 6.
- Xem xét việc xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học của học sinh, cũng như việc xây dựng và thực hiện kế hoạch phụ đạo học sinh yếu, kém môn Ngữ văn lớp 6 của bản thân.
- Tìm hiểu và phân tích thực trạng của những hạn chế trong quá trình tự học của học sinh năm học 2011-2012
- Trên cơ sơ xác định được những nguyên nhân chính, để đề ra những giải pháp tích cực nhằm giúp đỡ học sinh lĩnh hội tri thức một cách dễ dàng.
II. Giải quyết vấn đề
1. Cơ sở lí luận
Dựa trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường THCS. Đặc biệt là chuẩn kiến thức kỹ năng mà học sinh cần đạt được sau giờ học Ngữ văn, những kiến thức kỹ  năng có trong bài học, tham khảo sách hướng dẫn và một số tài liệu bồi dưỡng trong chương trình Ngữ văn.  Bên cạnh đó còn có sự đúc kết kinh nghiệm của bản thân qua thực tế phụ đạo học sinh yếu, kém môn Ngữ văn trong thời gian qua.
2. Giá thuyết
Trước tình hình thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường THCS, chúng ta cần làm gì và làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học. Đó là vấn đề đặt ra cấp thiết đối với mỗi giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn.              
Nếu đưa ra một số biện pháp hợp lý thì sẽ giúp học sinh lớp 6 nắm vững kiến thức cơ bản môn Ngữ văn, có thể góp phần làm cho chất lượng học tập học sinh được nâng lên.
3. Quá trình thử nghiệm
a. Các giải pháp, biện pháp giải quyết thực trạng
Ngay từ đầu năm giáo viên phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học sinh yếu, kém là bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo kịp thời.
DANH SÁCH HỌC SINH YẾU, KÉM MÔN NGỮ VĂN 6 CẦN PHỤ ĐẠO
TT
Họ và tên HS
Điểm KTCL
đầu năm
Xếp loại
Họ và tên cha(mẹ)
Ghi chú
1
Thi Thế Anh
3
Kém
Thi Văn Bình
Hoàn cảnh khó khăn
2
Nguyễn Trung Nghĩa
3
Kém
Nguyễn Văn Tùng
Mất kiến thức cơ bản
3
Vũ Thái Sơn
2,5
Kém
Vũ Văn Minh
Mất kiến thức cơ bản
4
Phạm Tiến Đạt
3,5
Yêu
Phạm Văn Ân
Hoàn cảnh khó khăn
5
Đàm Đinh Hoàng
4,5
Yêú
Đàm Văn Lập
Hoàn cảnh khó khăn
6
Nguyễn Đức Tân
2
Kém
Nguyễn Văn Hùng
Mất kiến thức cơ bản
7
Bế Tiến Đạt
3,5
Yêu
Bế Văn Út
Mất kiến thức cơ bản
8
Vũ Phương Thảo
3,5
Yếu
Vũ Văn Hiền
Mất kiến thức cơ bản
9
Đàm thế Anh Tuấn
2
Kém
Đàm Văn Lê
Mất kiến thức cơ bản
Kết quả trên cho thấy các em học yếu, kém rất nhiều. Là giáo viên đứng lớp  trực tiếp dạy môn Ngữvăn nhiều năm. Tôi tìm ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
- Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện
Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần thiết để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình.
Tôi luôn tạo cho lớp học có một bầu không khí thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng hoặc dùng lờithiếu tôn trọng với các em, không để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình.
Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em.
- Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh
Tôi luôn xem xét, phân loại những học sinh yếu, kém đúng với những đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài chậm, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát
Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này.
Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. Ví dụ khi học bài: Thánh Gióng, đối với học sinh yếu, kém cần cho các em nắm được ý nghĩa của văn bản: Ca ngợi hình tượng người anh hùng đánh giặc cứu nướctiêu biểu cho truyền thống yêu nước, đoàn kết, tinh thần anh dũng, kiên cườc của dân tộc ta.
Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học sinh trong từng hoạt động, dành cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình trong tập thể.
Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu kém khi các biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1 đến 2 buổi trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với hình thức vui chơi nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải, nặng nề.
- Giáo dục ý thức học tập cho học sinh
Giáo viên phải giáo dục ý thức tự giác học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức tự giác học tập và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do hiện nay, có một số phụ huynh luôn gò ép việc học của con em mình, sự áp đặt và quá tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao. Bản thân giáo viên cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên.
b. Những biện pháp cụ thể
-Trong quá trình dạy, giáo viên luôn tìm ra các phương pháp giảng dạy thích hợp, có trọng tâm, bằngphương pháp trực quan sinh động, giảng dạy vấn đáp, chơi trò chơi văn học, thi đua, trò chơi tiếp sức  phối hợp đang xen nhau tạo hứng thú cho các em tiếp thu bài tốt hơn.
- Khi phụ đạo, tôi cho các em làm việc nhóm. Đôi lúc tổ chức cho các em thi tìm nhanh kiến thức.
- Khi giảng dạy giáo viên chú ý theo dõi học sinh kém, khuyến khích các em học tập tích cực phát biểu ý kiến. Đặt những câu hỏi dễ, cho những bài tập vừa sức. Đối với mục tiêu quan trọng cơ bản của tiết học, giáo viên thường xuyên gọi các em yếu thực hành nhiều hơn. Có thể chẻ nhỏ bài tập hoặc cho thêm nhiều bài tập trắc nghiệm với mức độ yêu cầu vừa sức với các em, giúp các em khắc phục tính ngại khó, giúp các em hiểu các thuật ngữ, cách suy luận, chỉ rõ những kiến thức quan trọng cần khắc sâu, cần nhớ kỷ.
- Kích thích động viên đúng lúc khi các em có tiến bộ hay đạt được một số kết quả. Đồng thời phân tích chỉ cho các em chỗ sai nếu có, phê phán đúng mức thái độ lơ là khi học, tránh nói chạm lòng tự ái học sinh.
- Điều quan trọng cần nói đến nữa là giáo viên cần tạo không khí cởi mở, tạo tình cảm thân thiện, gần gũi, tránh sự nặng nề, tạo áp lực cho các em để các em cảm thấy thích học, để dần dần thay đổi về “chất”.
-Thường xuyên theo dõi kiểm tra sau mỗi tiết học. Sau mỗi tuần học cần có 1 bài kiểm tra những kiến thức đã học để nắm sự tiến bộ  phát hiện kịp thời những kiến thức các em chưa nắm được để có sự điều chỉnh phù hợp với kế hoạch phụ đạo học sinh.
-Tổ chức cho học sinh khá giỏi thường xuyên giúp đỡ các em yếu kém về học tập, về phương pháp vận dụng kiến thức .
- Giáo viên thường xuyên liên hệ với phụ huynh của các em học yếu để báo cáo tình hình học tập của các em học yếu, kém. Kết hợp phụ huynh động viên, đôn đốc, nhắc nhớ giúp các em đạt kết quả tốt hơn.
4. Hiệu quả đạt được
Qua các biện pháp nêu trên đã giúp các em học sinh yếu kém của lớp có sự tiến bộ một cách rõ rệt, đưa chất lượng học tập của các em nâng dần. Đến cuối HKI phần lớn các em nắm vững kiến thức và biết vậndụng kiến thức vào thực tiễn, tỷ lệ yếu kém được cải thiện đáng kế. Kết quả cụ thể số liệu xếp loại học lực môn Ngữ văn qua học kì I của năm học 2011-2012 như sau:
KẾT QUẢ HỌC SINH ĐẠT ĐƯƠC SAU KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
TT
Họ và tên HS
Điểm KTCL
đầu năm
Xếp loại
Kết quả HK I
Xếp loại
1
Thi Thế Anh
3
Kém
4,4
Yếu
2
Nguyễn Trung Nghĩa
3
Kém
4,8
Yếu
3
Vũ Thái Sơn
2,5
Kém
4,8
Yếu
4
Phạm Tiến Đạt
3,5
Yêu
5,0
TB
5
Đàm Đinh Hoàng
4,5
Yêú
5,2
TB
6
Nguyễn Đức Tân
2
Kém
4,8
Yếu
7
Bế Tiến Đạt
3,5
Yêu
4,5
TB
8
Vũ Phương Thảo
3,5
Yếu
5,6
TB
9
Đàm thế Anh Tuấn
2
Kém
4,2
Yếu
IV. Bài học kinh nghiệm
1. Sáng kiến cụ thể
Sáng kiến: “Phụ đạo học sinh yếu, kém môn Ngữ văn 6 - THCS”  thuộc loại " Giải pháp cải tiến phương pháp dạy - Học " sử dụng trong chương trình dạy học các giờ chính khóa, giờ học tự chọn, ngoại khóa. Với sáng kiến trên học sinh có nhiều thời gian nghe giảng đóng góp nhiều ý kiến xây dựng bài, luyện tập nhiều trong những giờ học tự chọn, phụ đạo ngoại khóa.
2. Sử dụng sáng kiến
Qua thực tế vận dụng sáng kiến: “Phụ đạo học sinh yếu, kém môn Ngữ văn 6 - THCS”, tôi rút ra được một số bài học kinh nghiệm sau:
a. Về phía giáo viên
Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân thiết nghĩ, muốn giúp đỡ đối tượng học sinh yếu, giáo viên cần:
- Phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực.
- Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đoàn thể trong nhà trường, với chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em.
- Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua các phong trào, tạo cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các em, giáo viên phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với các em, hòa hợp với các em, xem học sinh là con em của mình, chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp.
b. Về phía học sinh
Học sinh luôn thích được động viên khen thưởng, giáo viên không nên dùng hình phạt, đánh mắng làm cho các em sợ sệt, phải tạo cho các em có niềm tin để các em an tâm học tập.
Tóm lại, nếu giáo viên tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa học sinh với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học tập thì chắc chắn rằng các em là học sinh yếu kém sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để phát huy khả năng tự học của mình. Cùng với lòng nhiệt thành của người thầy và sự cố gắng, nỗ lực của chính bản thân các em thì chúng ta tin tưởng vào kết quả học tập tốt nhất sẽ đến với các em.
 3. Kết luận và kiến nghị
 a. Kết luận
Công tác bồi dưỡng học sinh yếu kém là hết sức quan trọng, nó tác động trực tiếp đến quá trình nâng cao chất lượng dạy và học là động lực thúc đẩy sự phát triển của nhà trường. Chính công tác này giúp chúng ta nắm được hoạt động hàng ngày trên lớp của học sinh, đồng thời góp phần chống học sinh bỏ học của  nhà trường.
 Qua phân tích thực trạng trên, tôi nhận thấy học sinh có nhiều tiến bộ, cơ bản các em biết cách lĩnh hội tri thức và biết vận dụng kiến thức vào thực tế. Ý thức của các em đối với việc học được nâng cao hơn. Tuy nhiên, còn có một số học sinh do hòan cảnh gia đình khó khăn, nhà xa trường nên các em nghỉ học nhiều, vì thể các em có một phần nào đó không nắm đuợc hệ thống kiến thức của bộ môn Văn
 Qua nghiên cứu đề tài này, tôi thấy được vai trò của người giáo viên là hết sức quan trọng, vì thế giáoviên phải luôn tự hoàn thiện mình bằng cách:
 +Tham gia đầy đủ các lớp bồi dưỡng.
 +Tự nghiên cứu, đọc tài liệu liên quan chuyên môn nghiệp vụ
 + Trao đổi, học hỏi kinh nghiệm ở đồng nghiệp, bạn bè 
Một số kinh nghiệm bản thân ghi ra ở đây với hy vọng rằng:  Đây sẽ là một tài liệu nhỏ để các quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tình huống sư phạm thích hợp. Hơn thế nữa, giúp đỡ học sinh yếu là nghĩa vụ, trách nhiệm của người thầy. Hãy làm hết trách nhiệm bằng cái tâm của người thầy và hãy nhận lấy trách nhiệm về mình.
Qua nhiều năm tận tụy với nghề, hết lòng yêu nghề, mến trẻ. Thực hiện phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Kết hợp với kinh nghiệm của bản thân và sự chia sẽ của bạn bè đồng nghiệp, bản thân luôn hoàn thành tốt việc giúp đỡ đối tượng học sinh yếu. Đây là một trong những tác động lớn đưa bản thân đến việc nghiên cứu đề tài thiết thực hơn và thực hiện viết sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả cao nhất.
 Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc giúp đỡ học sinh yếu kém. Trong bài viết chắc không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong quí thầy, cô đóng góp ý kiến. Tôi xin chân thành cảm ơn.
b. Kiến nghị
* Đối với nhà trường
- Cần có sự chỉ đạo chung cho toàn thể giáo viên của trường trong công tác phụ đạo học sinh yếu kém.
-Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc giáo viên thực hiện tốt công tác này; đây là công tác trọng tâm của nhà trường trong việc chống học sinh bỏ học, lưu ban.
* Đối với giáo viên Chủ nhiệm
- Cần có sự phối hợp tốt với giáo viên bộ môn để cùng nhau giúp đỡ học sinh vượt qua được những hạn chế của mình.
- Luôn trao đổi với cha mẹ học sinh, đặc biệt là những học sinh kém để tác động kịp thời.
                                                                           Hòa chung, ngày 02 tháng 3 năm 2012
                                                                                               Người viết

File đính kèm:

  • docchuyen_de_phu_dao_hoc_sinh_yeu_kem_mon_ngu_van_6.doc