Tài liệu ôn tập và thi vào Lớp 10 môn Ngữ văn
Tác giả Chính Hữu "Đồng chí"
1.Tác giả:
Nhà thơ Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đôvà hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ Chính Hữu hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh.
"Hiện Chính Hữu mới chỉ công bố: tập thơ Đầu súng trăng treo (1966), Thơ Chính Hữu (1977), Tuyển tập Chính Hữu (1988). Thơ Chính Hữu giàu hình ảnh, nhiều suy tưởng, ngôn ngữ chon lọc, cô đọng. Ông thường sử dụng thể thơ tự do, giàu nhạc điệu, mà chủ yếu là nhạc điệu của nội tâm, vừa lắng đọng vừa có sức âm vang. Chính Hữu làm thơ không nhiều nhưng vẫn có một vị trí xứng đáng trong nền thơ hiện đại Việt Nam, và một số bài thơ của ông thuộc số những tác phẩm tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến (Đồng chí, Đường ra mặt trận, Ngọn đèn đứng gác, Trang giấy học trò). Chính Hữu được tăng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2000 (Nguyễn Văn Long, Từ điển văn học, Sđđ).
2.Tác phẩm:
Bài thơ Đòng chí được sáng tác đầu năm 1948, thể hiện những cảm xúc sâu xa và mạnh mẽ của nhà thơ Chính Hữu với đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc. Cảm hứng của bài thơ hướng về chất thực của đời sống kháng chiến, khai thác cái đẹp và chất thơ trong sự bình dị của đời thường.
Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đôi gắn bó thắm thiết của những người nông dân mặc áo lính trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn, tình cảm đó thật cảm động đẹp đẽ.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu ôn tập và thi vào Lớp 10 môn Ngữ văn
TÀI LIậ́U ễN TẬP VÀ THI VÀO LỚP 10 MễN NGỮ VĂN Phõ̀n thứ nhṍt PHẦN VĂN HỌC I- CÁC TÁC PHẨM TRỌNG TÂM CẦN ễN TẬP: A- Văn xuụi : 1- Phong cách Hụ̀ Chí Minh – Lờ Anh Trà 2- Đṍu tranh cho mụ̣t thờ́ giới hòa bình – G.G.Mac ket 3- Chuyợ̀n người con gái Nam Xương – Nguyờ̃n Dữ 4- Chuyợ̀n cũ trong phủ chúa Trịnh – Phạm Đình Hụ̉ 5- Hoàng Lờ nhṍt thụ́ng chí – Ngụ Gia văn phái 5- Lặng lẽ Sa Pa – Nguyờ̃n Thành Long 6- Chiờ́c lược ngà – Nguyờ̃n Quang Sáng 7- Bàn vờ̀ đọc sách – Chu Quang Tiờ̀m 8- Tiờ́ng nói của văn nghợ̀ – Nguyờ̃n Đình Thi 9- Những ngụi sao xa xụi – Lờ Minh Khuờ 10- Cụ́ Hương – Lụ̃ Tṍn 11- Bụ́ của Xi-mụng - Mụ-pa-xăng B- Thơ : 1- Truyợ̀n Kiờ̀u – Nguyờ̃n Du Các đoạn trích: Chị em Thúy Kiờ̀u, Cảnh ngày xuõn, Kiờ̀u ở lõ̀u Ngưng Bích, Mã Giám Sinh mua Kiờ̀u, Thúy Kiờ̀u báo õn báo oán. 2- Lục Võn Tiờn – Nguyờ̃n Đình Chiờ̉u Các đoạn tríc: Lục Võn Tiờn cứu Kiờ̀u Nguyợ̀t Nga, Lục Võn Tiờn gặp nạn. 3- Đụ̀ng chí – Chính Hữu 4- Bài thơ vờ̀ tiờ̉u đụ̣i xe khụng kính – Phạm Tiờ́n Duọ̃t 5- Đoàn thuyờ̀n đánh cá – Huy Cọ̃n 6- Khúc hát ru những em bé lớn trờn lưng mẹ – Nguyờ̃n Khoa Điờ̀m 7- Ánh trăng – Nguyờ̃n Duy 8- Con cò – Chờ́ Lan Viờn 9- Mùa xuõn nho nhỏ – Thanh Hải 10- Viờ́ng Lăng Bác – Viờ̃n Phương 11- Sang thu – Hữu Thỉnh 12- Nói với con – Y Phương 13- Mõy và sóng – Ta Go Ngoài ra còn mụ̣t sụ́ tác phảm kịch và văn học nước ngoài, yờu cõ̀u các thõ̀y cụ giáo hướng dõ̃n học sinh tự ụn tọ̃p. II- SƠ LƯỢC Vấ̀ Mệ̃T Sễ́ TÁC GIẢ TÁC PHẨM TIấU BIấ̉U: Chính Hữu "Đồng chí" 1.Tác giả: Nhà thơ Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đôvà hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ Chính Hữu hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. "Hiện Chính Hữu mới chỉ công bố: tập thơ Đầu súng trăng treo (1966), Thơ Chính Hữu (1977), Tuyển tập Chính Hữu (1988). Thơ Chính Hữu giàu hình ảnh, nhiều suy tưởng, ngôn ngữ chon lọc, cô đọng. Ông thường sử dụng thể thơ tự do, giàu nhạc điệu, mà chủ yếu là nhạc điệu của nội tâm, vừa lắng đọng vừa có sức âm vang. Chính Hữu làm thơ không nhiều nhưng vẫn có một vị trí xứng đáng trong nền thơ hiện đại Việt Nam, và một số bài thơ của ông thuộc số những tác phẩm tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến (Đồng chí, Đường ra mặt trận, Ngọn đèn đứng gác, Trang giấy học trò). Chính Hữu được tăng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2000 (Nguyễn Văn Long, Từ điển văn học, Sđđ). 2.Tác phẩm: Bài thơ Đòng chí được sáng tác đầu năm 1948, thể hiện những cảm xúc sâu xa và mạnh mẽ của nhà thơ Chính Hữu với đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc. Cảm hứng của bài thơ hướng về chất thực của đời sống kháng chiến, khai thác cái đẹp và chất thơ trong sự bình dị của đời thường. Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đôi gắn bó thắm thiết của những người nông dân mặc áo lính trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn, tình cảm đó thật cảm động đẹp đẽ. Phạm Tiến Duật "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" 1. Tác giả : Nhà thơ Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Trường đại học sư phạm Hà Nội, năm 1964, Phạm Tiến Duật gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc khánh chiến chống đế quốc Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên trên tuyến đường Trường Sơn. Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc. Các tác phẩm chính: Vầng trăng quầng lửa (thơ, 1970); Thơ một chặng đường (thơ, 1971); ở hai đầu núi (thơ, 1981); Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983); Nhóm lửa (thơ, 1996);... Tác giả đã được nhận: giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1969 - 1970. 2. Tác phẩm : Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm thuộc chùm thơ được tăng Giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ năm 1969 - 1970. trong bài thơ, tác giả đã thể hiện khá đặc sắc hình ảnh "anh bộ đội cụ Hồ" hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung và những chiếc xe không kính ngộ nghĩnh giữa tuyến đường Trường Sơn lịch sử thời kì kháng chiến chống đế quốc Mĩ. "Chỉ một tuần sau bài thơ ra đời, cả mặt trận có vô số tiểu đội xe không kính. Sau này, vào những năm cuối cuộc kháng chiến, đã có những chiến sĩ lái xe tự lái xe vỡ để mắt thường nhìn trực tiếp mặt đường chằng chịt hố bom cho rõ hơn dưới ánh sáng lù mù của chiếc đèn gần soi. Thậm chí, có người còn tháo cả cánh cửa buồng lái để tiện cho việc xử lí tình huống khi xe bị máy bay AC130 săn đuổi - loại máy bay bắn roc - ket hay đạn 27 li vào mục tiêu di động bằng thiết bị dò âm thanh mặt đất và bằng kính nhìn có tia hồng ngoại. Mạn phép nói thêm cái chất thực của bài thơ để chúng ta hiểu rằng, một bài thơ có nhiều khi vượt qua phạm trù cái đẹp văn chương thuần túy, dâng cho cuộc sống những giá trị thực tiễn lớn lao biết nhường nào. Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính có cái mãnh lực thần kỳ ấy, nó vừa mang tính chiến đấu nóng bỏng, tính thời sự tức thời vừa mang tính lịch sử! Tất nhiên một bài thơ như thếphải là tiếng nói của cuộc sống thực hào hùng. Đó là tiếng nói chân thành, độc đao của người trong cuộc. Nó như một tuyên ngôn về lẽ sống của một thế hệ người Việt Nam! Giờ đây mỗi lần có dịp đọc lại hay nghe ai đó đọc lên bài thơ này, không ít người như tôi lại bồi hồi nhớ về một quãng đời chiến tranh ở đường 9 - Nam Lào, nhớ về hình ảnh anh Phạm Tiến Duật lần đầu đứng trước anh em đơn vị D61. Anh đọc cho anh em nghe bài thơ nói về họ trước giờ xuất kích. Đã hết câu cuối cùng của bài thơ mà cả đơn vị còn lặng im, rồi phút chốc cùng vùng dậy, thoáng đã nhồi sau tay lái. Một khoảng rừng già rộ lên, những cỗ xe dắt kín lá ngụy trang rùng rùng chuyển bánh đi về hướng Nam đã định" Huy Cận "Đoàn thuyền đánh cá" 1.Tác giả: Nhà thơ Huy Cận tên đầy đủ là Cù Huy Cận (1919-2005) .Huy Cận nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng(1940). Ông tham gia Cách mạng từ trước năm 1945 và sau cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Huy Cận được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học và nghệ thuật( năm 1996). Hơn sáu mươi năm Hoạt động văn học nói chung và làm thơ nói riêng, với gần hai mươi thi phẩm thơ đi từ nỗi buồn "từ ngàn xưa"đến niềm vui lớn hôm nay. Huy Cận luôn gắn liền với mạch đời chung của dân tộc. Thơ Huy Cận vừa bám lấy cuộc đời, vừa hướng tới những khoảng rộng xa của tạo vật và thời gian, vừa trăn trở với cái chết, vừa nâng niu sự sống trước qui luật tử sinh, vừa triết lý suy tư, vừa hồn nhiên thơ trẻ, vừa bay bổng lãng mạn, vừa hiện thực đời thường, trong cái khoảnh khắc hữu hạn của đời người vẫn muốn hóa thân vào cái vĩnh cửu, trường sinh(Trời mỗi ngày lại sáng, đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời, Những năm sáu mươi, chiến trưỡng gần đến chiến trường xa, ngày hằng sống ngày hằng thơ, Ngôi nhà giữa nắng, ta về với biển, Lời tâm nguyện cùng hai thế kỷ). Với ý thức vận động và sự chuyển hóa giữa nhiều yếu tố trong hình tượng cái tôi trữ tình, Huy Cận đã tạo cho mình một phong cách đặc sắc, độc đáo. Huy Cận đã tỏ ra sở trường về thơ lục bát và có đóng góp đáng kể trong sự mở rộng hình thức và nâng cao trí tuệ cho thơ theo hướng suy tưởng, vươn lên những khái quát rộng xa, giàu liên tưởng trong những bài thơ mở rộngl khuôn khổ , kích thước. Các tác phẩm chính : Lửa thiêng (thơ, 1940); Vũ trụ ca (thơ, 1942); Kinh cầu tự (văn xuôi, 1942); Tính chất dân tộc trong văn nghệ (nghiên cứu, 1958); Trời mỗi ngày lại sáng (thơ, 1958); Đất nở hoa (thơ, 1960); Bài ca cuộc đời (thơ, 1963); Hai bài tay em (thơ; 1967); Phù Đổng Thiên Vương (thơ, 1968); Những năm sáu mươi (thơ, 1968); Cô gái Mèo (thơ; 1972); Thiếu niên anh hùng họp mặt (thơ, 1973); Chiến trường gần đến chiến trường xa (thơ, 1973);Chiến trường gần chiến trường xa(Thơ, 1973);Những người mẹ, những người vợ( thơ, 1974); Ngày hằng sốmg ngày hằng thơ(thơ,1975); Sơn Tinh, Thủy Tinh (thơ, 1976) ; Ngôi nhà giữa nắng(thơ, 1978); Hạt lại gieo (thơ, 1984) ; Tuyển tập( thơ, 1986);... 2 . Tác phẩm: Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá thể hiện sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và cảm hứng thiên nhiên, vũ trụ của nhà thơ Huy Cận. Bài thơ được bố cục theo hành trình một chuyến ra khơicủa đoàn thuyền đánh cá. Hai khổ đầu là cảnh lên đường và tâm trạng náo nức của con người, bốn khổ tiếp theo là hoạt động của đoàn thuyền đánh cávà khổ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh của ngày mới. Về hoàn cảnh sáng tác, nhà thơ Huy Cân nhớ lại: "Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của tôi được viết ra trong những tháng năm đất nước bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không khí lúc này vui, cuộc đời phấn khởi, nhà thơ cũng rất phấn khởi. Cả tác phẩm vùng than, vùng biển đang hăng say lao động từ bình minh cho đến hoàng hôn và cả từ hoàng hôn cho đến binh minh. Đoàn thuyền đánh cá lấy thời điểm xuất phát khác với lệ thường, lúc mặt trời lặn và trở về trong ánh bình minh chói lọi. Khung cảnh trên biển khi mặt trời tắt không nặng nề, tăm tối mà mang vẻ đẹp của thiên nhiên tạo vật trong quy luật vận động tự nhiên của nó. ở đây tôi đã miêu tả khung cảnh tạo vật với cảm hứng vũ trụ. Nếu trước cách mạng vũ trụ ta còn buồn thì bây giờ vui, trước là cách biệt xa cách với cuộc đời thì hôm nay lại gần gũi với con người. Bài thơ của tôi là một cuộc chạy đua giữa con người và thiên nhiên và con người đã chiến thắng. Tôi coi đây là khúc tráng ca, ca ngợi con người trogn lao động với tinh thần làm chủ với niềm vui. Bài thơ cũng là sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn. Chất hiện thực của khung cảnh lao động trên biển cả khi vùng biển đã về ta. Và chất lãng mạn thì cũng không cần phải tưởng tượng nhiều. ở giữa cảnh biẻn cao rộng đó, với gió, ... ự sống. - ễ nhiễm mụi trường làm cảnh quan bị ảnh hưởng. c. Đỏnh giỏ : - Những việc làm đú là thiếu ý thức bảo vệ mụi trường, phỏ huỷ mụi trường sống tốt đẹp. - Phờ phỏn và cần cú cỏch xử phạt nghiờm khắc. d. Hướng giải quyết : - Tuyờn truyền để mỗi người tự rốn cho mỡnh ý thức bảo vệ mụi trường. - Coi đú là vấn đề cấp bỏch của toàn xó hội. GIỚI THIậ́U Mệ̃T Sễ́ BÀI VĂN HAY : Xin giới thiệu với bạn đọc bài văn đạt giải của em Nguyễn Thị Hoài Mơ - Trường THCS Trần Quý Cỏp Thăng Bỡnh , ↓ ↓9 năm liền đạt danh hiệu học sinh giỏi và giải nhất mụn văn Đề bài: Suy nghĩ của em về vầng trăng tri kỷ, vầng trăng tỡnh nghĩa, vầng trăng dửng dưng và đặc biệt là vầng trăng thức tỉnh trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. Trăng- Hỡnh ảnh giản dị, quen thuộc đó chắp cỏnh cho những hồn thơ bay bổng để rồi những tỏc phẩm tuyệt vời được ra đời. Nếu Chớnh Hữu đó treo lờn một bức tranh tuyệt đẹp, lóng mạn qua hỡnh ảnh “Đầu sỳng trăng treo” thỡ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy lại mang một tớnh chất triết lý thầm kớn. Đú là đạo lớ “Uống nước nhớ nguồn”. Đối với nhà thơ đõy là vầng trăng tri kỷ, vầng trăng tỡnh nghĩa, vầng trăng dửng dưng và đặc biệt là vầng trăng thức tỉnh. Nú như hồi chuụng giúng lờn, đỏnh thức tõm hồn u tối trong mỗi con người. Cú thể núi, với mỗi chỳng ta, vầng trăng là một vật thể bỡnh thường mà thiờn nhiờn, đất trời ban tặng. Nhưng với Nguyễn Duy, vầng trăng khụng những là hỡnh ảnh của quờ hương mà nú cũn là người bạn tri õm, tri kỷ, là quỏ khứ nghĩa tỡnh, chan chứa yờu thương, là một quan toà lương tõm trong tận sõu thẳm tõm hồn nhà thơ. “Hồi nhỏ sống với đồng/ Với sụng rồi với bể/ Hồi chiến tranh ở rừng/ Vầng trăng thành tri kỷ”. Tuổi thơ tỏc giả được gắn bú với “vầng trăng”, “với đồng”, “với sụng” rồi “với bể”. Những hỡnh ảnh gần gũi, quen thuộc với mỗi người dõn quờ Việt Nam. Đến lỳc đi chiến đấu trăng lại như người bạn thõn luụn sỏt cỏnh bờn người lớnh, cựng người lớnh trải nghiệm sương giú, bom đạn của chiến tranh, của đời lớnh. Tỡnh cảm gắn bú bao lõu, nay chỉ biết hợp thành hai “tri kỷ”. Một tỡnh bạn thật đẹp, thật cao cả và trong suy nghĩ của người lớnh: “Ngỡ khụng bao giờ quờn/ Cỏi vầng trăng tỡnh nghĩa” Nhưng rồi năm thỏng gian khổ qua đi, nay người lớnh năm nào đó xa làng quờ thanh bỡnh của tuổi thơ về với thành phố cựng với những tiện nghi sinh hoạt: “Từ hồi về thành phố/ Quen ỏnh điện cửa gương/ Vầng trăng đi qua ngừ/ Như người dưng qua đường”. Những kỷ niệm tuổi thơ hồn nhiờn, những ngày khú khăn trong chiến trường cựng “vầng trăng” đó đi vào dĩ vóng. Người lớnh năm xưa đó vụ tỡnh lóng quờn quỏ khứ, quờn người bạn “tri kỷ” của mỡnh. Dẫu bạn- đồng chớ, cú đi ngang qua ngừ thỡ cũng chỉ là một thoỏng lướt qua. Một phần vụ tõm của con người đó lấn ỏt lớ trớ người lớnh. Nhưng trong một hoàn cảnh đặc biệt “Đốn điện tắt”, người lớnh phải giật mỡnh sững sờ: “Đột ngột vầng trăng trũn”. “Vầng trăng” lại tỡm đến và đối mặt với người lớnh. Người bạn năm xưa đó tỡm đến, bạn ư? Bao lõu nay người lớnh đó quờn mất rồi! Nhưng, “đột ngột”- một sự xuất hiện khụng dự bỏo trước. “Trăng cứ trũn vành vạnh/ Kể chi người vụ tỡnh/ Ánh trăng im phăng phắc/ Đủ cho ta giật mỡnh”. Quỏ khứ khi xưa hiện về nguyờn vẹn. Trăng- hay quỏ khứ nghĩa tỡnh vẫn tràn đầy, viờn món, thuỷ chung. “Trăng cứ trũn vành vạnh”. Trăng vẫn đẹp, quỏ khứ vẫn toả sỏng đầy ắp yờu thương dẫu con người đó lóng quờn. Trăng “im phăng phắc”, một cỏi lặng lẽ đến đỏng sợ. Trăng khụng hề trỏch múc con người quỏ vụ tõm như một sự khoan dung, độ lượng. “Vầng trăng” dửng dưng khụng cú một tiếng động nhưng lương tõm con người lại đang bộn bề trăm mối. “Ánh trăng” hay chớnh là quan toà lương tõm đang đỏnh thức một hồn người. Cỏi “giật mỡnh” của người lớnh phải chăng là sự thức tỉnh lương tõm của con người? Chỉ im lặng thụi “vầng trăng” đó thức tỉnh, đỏnh thức con người sau một cơn mờ dài đầy u tối. Chỉ với một “vầng trăng” - “vầng trăng” của Nguyễn Duy cũng cú thể làm được những điều tưởng chừng như khụng thể. “Ánh trăng” là cội nguồn quờ hương, là nghĩa tỡnh bố bạn, là quan toà lương tõm, là sự thức tỉnh của con người. Trăng vẫn đẹp, quỏ khứ vẫn cũn và con người vẫn cũn cơ hội sửa chữa sai lầm. Mỗi con người chỳng ta cú thể đến một lỳc nào đú sẽ lóng quờn quỏ khứ, sẽ vụ tỡnh với mọi người nhưng rồi sự khoan dung và độ lượng của quờ hương sẽ tha thứ tất cả. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy sẽ mói mói soi sỏng để đưa con người hướng tới tương lai tươi đẹp. Đạo lớ sống thuỷ chung, nghĩa tỡnh với quỏ khứ, với quờ hương sẽ đưa lối mỗi chỳng ta đến với cuộc đời hạnh phỳc ở tương lai. Đọc thờm : Chuyợ̀n người con gái Nam Xương Nghĩ chuyện trờn đời kỡ lạ thật. Chuyện tỡnh duyờn, sống chết, số phận của con người lại được định đoạt tự một cõu chuyện đựa về một cỏi búng. Ngày xưa, thõn mẫu của Trịnh Trang Cụng trong éụng Chu liệt quốc đó gõy ra bao chuyện phiền phức dẫn đến cảnh đầu rơi mỏu chảy chỉ vỡ bà ghột Trịnh Trang Cụng khi xưa sinh ngược khiến bà phải đau đớn. Chuyện đời vẫn thế, đú là chỗ ộo le phức tạp trong đời sống tõm hồn con người. Chỗ kỡ bỳt của Nguyễn Dữ là đó bắt nắm được một tỡnh huống ộo le như vậy. Trong văn chương nước ta cũng như thế giới khụng hiếm những cõu chuyện xen những yếu tố truyền kỡ. Nột riờng của Chuyện người con gỏi Nam Xương là hai yếu tố thực và truyền kỡ khụng đan xen vào nhau mà kết cấu thành hai phần. Phần truyền kỡ vựa làm cho cõu chuyện thờm lung linh hư ảo, vựa gúp phần làm rừ những yếu tố ở phần thực. Phần thực là cơ sở để xõy dựng phần truyền kỡ (phần thực, tụi muốn núi thực của văn học). Bằng mối liờn hệ giữa hai phần, nhà văn làm nổi bật tớnh cỏch nhõn vật và thể hiện chủ đề của tỏc phẩm. Người con gỏi Nam Xương Vũ Thị Thiết là nhõn vật chớnh xuyờn suốt hai phần của tỏc phẩm. Nguyễn Dữ khụng chỳ trọng việc miờu tả hỡnh thức, chỳng ta chỉ biết Vũ nương là người “cú tư dung tốt đẹp”. Tớnh cỏch nhõn vật được thể hiện qua hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ với chồng và mẹ chồng. Mối quan hệ đú diễn ra ở những thời điểm khỏc nhau. Ở tựng thời điểm ấy, nhõn vật bộc lộ cỏ tớnh của mỡnh. Mối quan hệ với Trương Sinh diễn ra trờn bốn thời điểm: khi chồng ở nhà, khi chia tay, khi xa chồng và khi chồng trở về. Khi chung sống với nhau, biết Trương Sinh là người cú tớnh đa nghi, hay ghen nờn “nàng giữ gỡn khuụn phộp” cho gia đỡnh hoà thuận. Khi tiễn chồng đi tũng quõn, tớnh cỏch của Vũ nương được thể hiện ở lời đưa tiễn. Nàng núi với chồng: “Lang quõn đi chuyến này, thiếp chẳng dỏm mong được đeo ấn hầu trở về quờ cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bỡnh yờn”. Nàng nghĩ đến những khú nhọc, gian nguy của người chồng trước rồi mới nhận ra sự lẻ loi của mỡnh. Tự cỏch núi đến nội dung của những cõu núi hiện lờn một Vũ nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phỳc, khụng hư danh, thương chồng và giàu lũng vị tha, một tõm hồn cú văn hoỏ. Trong những ngày xa chồng, nàng nuụi con thơ, chăm súc mẹ chồng như mẹ đẻ của mỡnh. Ngũi bỳt Nguyễn Dữ tỏ ra già dặn, nhà văn đó để cho chớnh người mẹ chồng ấy nhận xột về tấm lũng hiếu thảo của nàng trước khi bà cụ qua đời: “Sau này trời giỳp người lành ban cho phỳc trạch, giống giũng tươi tốt xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đó chẳng nỡ phụ mẹ”. Trong con mắt của người mẹ chồng ấy, nàng là “người lành”. éến khi người chồng đi chinh chiến trở về nghi oan cho nàng, Vũ nương tỏ bày khụng được thỡ tự vẫn, chứ khụng sống “chịu tiếng nhuốc nhơ”. Khi thỡ cỏch xủ thế, khi thụng qua lời núi, khi hành động, khi thỏi độ hỡnh ảnh Vũ nương hiện lờn là một người trong trắng thuỷ chung, giàu lũng vị tha, hiếu thảo nhưng cũng là một người phụ nữ khớ khỏi, tự trọng. éú là một tõm hồn đẹp, đẹp một cỏch cú văn hoỏ. Dường như Nguyễn Dữ đó tập trung những nột đẹp điển hỡnh của người phụ nữ Việt Nam vào hỡnh tượng Vũ nương. Con người đẹp, thiết tha với hạnh phỳc này phải chết - éú chớnh là bi kịch về số phận con người. Vấn đề này biết bao nhà văn xưa nay tựng trăn trở. Cú lẽ đú cũng là bi kịch của muụn đời. Bởi vậy, vấn đề mà Chuyện người con gỏi Nam Xương đặt ra là vấn đề cú tớnh khỏi, quỏt giàu ý nghĩa nhõn văn. Phớa sau tấn bi kịch của Vũ nương cú một cuộc sống chinh chiến, loạn li, gõy cỏch biệt, nhưng căn bản là người chồng mự quỏng đa nghi, thiếu sỏng suốt. Những kẻ như thế xưa nay tựng gõy ra bao nỗi oan trỏi, đổ vỡ trong đời. éú cũng là một thứ sản phẩm hằng cú trong xó hội con người. Cho nờn vấn đề tưởng chựng rất riờng ấy lại là vấn đề điển hỡnh của cuộc sống. Tất nhiờn trong tấn bi kịch này cú phần của Vũ nương. Nàng vựa là nạn nhõn nhưng cũng là tỏc nhõn. Bởi chớnh nàng đó lấy cỏi búng làm cỏi hỡnh, lấy cỏi hư làm cỏi thật. Âu đú cũng là một bài học sõu sắc của muụn đời vậy. Phần truyền kỡ trong cõu chuyện là chuyện Vũ nương khụng chết, trở về sống trong Quy động của Nam Hải Long Vương đú là cuộc sống đời đời. Nhà văn đó tạo ra một cuộc gặp gỡ kỡ thỳ giữa Phan Lang - một người dương thế - với Vũ Nương nơi động tiờn. Cuộc gặp gỡ ấy đó làm sỏng tỏ thờm những phẩm chất của Vũ nương. Khi Phan Lang nhắc đến chuyện nhà của tổ tiờn thỡ Vũ nương “ứa nước mắt khúc”. Nàng quả thật là một con người thiện căn, thiết tha gắn bú với quờ hương đời sống mà khụng được sống. Tớnh cỏch của nàng và bi kịch như được tụ đậm khơi sõu một lần nữa. Nhưng dụng ý của nhà văn đưa phần truyền kỡ vào cõu chuyện khụng chỉ cú thế. Nguyễn Dữ muốn khẳng định một chõn lớ nghệ thuật: cỏi éẹp là bất tủ. Vũ nương khụng sống được ở cừi đời thỡ sẽ sống vĩnh hằng ở cừi tiờn, vỡ nàng là cỏiéẹp. Núi cho cựng, hiện thực của cõu chuyện là hiện thực về tấm lũng của nhà văn trước những vấn đề của cuộc sống. Nhà văn đó đi sõu khai thỏc những vẻ đẹp và nỗi đau khổ xút xa phức tạp của tõm hồn con người, nhất là người phụ nữ trong xó hội đương thời như Vũ nương. Cũng qua đú, nhà văn khẳng định một chõn lớ nghệ thuật phảng phất như trong cỏc truyện cổ dõn gian Thỏnh Giúng về trời, An Dương Vương xuống biển kỡ lạ mà cũng rấtthực. Trương Tham kiến thức cơ bản ngữ văn trung học cơ sở Biờn soạn: Nguyờ̃n Đình Triờ̉n Trường THCS Xuõn lõm, Thuọ̃n Thành, Bắc Ninh
File đính kèm:
- tai_lieu_on_tap_va_thi_vao_lop_10_mon_ngu_van.doc