Tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử Lớp 7

Ý nghĩa - Cuộc kháng chiến thắng lợi thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường của các tầng lớp nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh chống xâm lược Tống bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc, trong đó có đồng bào các dân tộc ít người.

- Kháng chiến thắng lợi thể hiện tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trên dưới một lòng, dưới sự chỉ huy tài giỏi của Lý Thường Kiệt. Chiến công của ông xứng đáng được sử sách dân tộc lưu mãi muôn đời.

- Kháng chiến chống Tống thắng lợi đập tan ý chí xâm lược của giặc, buộc nhà Tống từ bỏ hoàn toàn mộng thôn tính Đại Việt. Đất nước bước vào thời kì thái bình. - Đánh bại quân xâm lược hung tàn, bảo vệ nền độc lập.

- Khẳng định lòng yêu nước và ý chí quyết tâm bảo vệ đất nước của dân tộc ta.

- Nâng cao lòng tự hào dân tộc.

- Góp phần làm cho phong phú truyền thống quân sự của nhân dân ta.

- Để lại bài học vô giá "Khoan thủ sức dân, để làm kế sâu rễ bền gốc.

- Ngăn chặn ý đồ của nhà Nguyên trong việc xâm lược các nước khác.

3. Tại sao Lý Thường Kiệt lại chọn sông Như Nguyệt làm phòng tuyến chống quân Tống ?

- Sông Như Nguyệt bấy giờ khá sâu, rộng, lại là vị trí quan trọng trên đường Bắc – Nam. Đây là con sông chặn ngang tất cả các ngả đường bộ từ Quảng Tây (Trung Quốc) vào Thăng Long.

- Sông Như Nguyệt như một chiến hào tự nhiên rất khó có thể vượt qua.

- Lực lượng chủ yếu của nhà Tống là bộ binh.

Do vậy, Lý Thường Kiệt lại chọn sông Như Nguyệt làm phòng tuyến chống quân xâm lược Tống. Phòng tuyến được đắp bằng đất cao, vững chắc, có nhiều lớp giậu tre dày đặc, dọc theo khúc sông từ Đa Phúc đến Phả Lại, dài khoảng 100 km.

4. Trình bày diễn biến cuộc kháng chiến trên phòng tuyến Như Nguyệt năm 1077. Tại sao nói trận đánh ở sông như Nguyệt là một trong những trận đánh tuyệt vời trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta?

Diễn biến:

 Chờ mãi không thấy quân thủy đến, quân Tống bắc cầu phao, đóng bè tiến qua sông đánh vào phòng tuyến của ta nhưng đều bị thất bại.

Để khích lệ tinh thần chiến đấu của quân sĩ, đêm đêm Lí Thường Kiệt cho người vào ngôi đền bên bờ sông ngâm vang câu thơ:

"Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư"

Thất vọng, Quách Qùy ra lệnh "Ai bàn đánh sẽ bị chém" và chuyển sang củng cố phòng ngự. Quân sĩ ngày một chán nản, mệt mỏi, chết dần, chết mòn.

Vào một đêm cuối xuân 1077, Lí Thường Kiệt chỉ huy đại quân bất ngờ đánh vào doanh trại giặc. Quân Tống thua to bị tiêu diệt hơn quá nửa.

Lí Thường Kiệt chủ động cho người sang đề nghị "giảng hòa" với Quách Quỳ, Quách Quỳ chấp nhận ngay. Quân Tống vội vã rút về nước.

Trận đánh ở sông như Nguyệt là một trong những trận đánh tuyệt vời trong lịch sử dân tộc vì:

- Phòng tuyến Như Nguyệt thể hiện rõ tinh thần chủ động, quyết tâm kháng chiến của dân tộc ta và nghệ thuật lợi dụng địa hình cũng như tài chỉ huy quân sự của Lí Thường Kiệt.

- Là một trong những công trình quân sự kiên cố, hội tụ 3 yếu tố "thiên thời địa lợi nhân hòa", cùng với quyết tâm chống giặc cứu nước của toàn dân tộc đã góp phàn làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến.

 

doc 16 trang cucpham 460
Bạn đang xem tài liệu "Tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử Lớp 7", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử Lớp 7

Tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử Lớp 7
LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN GIỮA THẾ KỈ XIX
NƯỚC ĐẠI VIỆT THỜI LÝ (thế kỉ XI - đầu thế kỉ XIII)
Tên anh hùng
Công lao
Kinh đô
Tên nước
Ngô Quyền
- 938 đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng
- 939 lập triều đại nhà Ngô
Cổ loa
Âu Lạc
Đinh Bộ Lĩnh
-967 dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước 
-968 lập ra triều đại nhà Đinh
Hoa Lư
Đại Cồ Việt
Lê Hoàn
- 979 lập ra triều đại Tiền Lê 
- 981 đánh bại quân Tống trên sông Bạch Đằng
Lý Thường Kiệt, Tông Đản, Lý Kế Nguyên 
- 1010 Lý Công Uẩn lập ra triều đại nhà Lý
- 1075-1077 đánh bại quân Tống 
Thăng Long
Đại Việt
Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão, Trần Thủ Độ
-1226 Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, nhà Trần thành lập
-1258 -1288 ba lần đánh bại quân Mông –Nguyên
Hồ Qúy Ly
-1400 lập ra triều đại nhà Hồ. Cải cách đất nước trên nhiều lĩnh vực
Đại Ngu
An Tôn (Tây đô –Thanh Hóa)
Lê Lợi, Nguyễn Trãi
-1418-1427 đánh bại quân Minh
-1428 Lê Lợi lập ra triều đại Lê Sơ
Thăng Long
Đại Việt
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ
-1771 phong trào nông dân Tây Sơn bùng nổ do Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo lật đổ chính quyền họ Nguyễn đàng Trong (1783) lật đổ chính quyền Lê –Trịnh đàng ngoài (1786) đạt cơ sở thống nhất đất nước
- 1785 Nguyễn Huệ đánh bại 5 vạn quân Xiêm ở Rạch Gầm –Xoài Mút
- 1788 Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế
-1789 Quang Trung (Nguyễn Huệ) đại phá 19 vạn quân Thanh
“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.”
Bài thơ này nói lên:
 -Ý chí đánh tan quân xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc, giữ gìn nền văn hóa và những phong thục tập quán lâu đời của nhân dân;
- Ý chí quyết tâm tiêu diệt giặc khiến cho quân thù mảnh giáp không còn, không một chiếc xe nào để trở về;
-Đánh cho chúng biết rằng nước Nam anh hùng là có chủ.
2.Hoàn thành bảng theo các nội dung so sánh thời Lý –Trần
Nội dung
Thời Lý
Thời Trần
Chống quân xâm lược
Kháng chiến chống quân Tống (1075 – 1077)
Kháng chiến lần thứ nhất chống quân xâm lược Mông Cổ (1258)
Kháng chiến lần thứ hai chống quân xâm lược Nguyên (1285)
Kháng chiến lần thứ ba chống quân xâm lược Nguyên (1287-1288)
Đường lối kháng chiến
- Đánh vào âm mưu xâm lược của địch.
- Phòng ngự và phản công địch ngay khi chúng vào nước ta, giành thắng lợi quyết đinh.
- Vườn không nhà trống.
- Đánh lâu dài làm cho địch suy yếu và đánh đòn quyết định.
- Khai thác chỗ yếu của địch và phát huy thế mạnh của ta.
Những tấm gương tiêu biểu
Lý Thường Kiệt, Tông Đản, Lý Kế Nguyên 
Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái, Trần Thủ Độ
Nguyên nhân thắng lợi
- Do ý chí độc lập tự chủ của toàn thể nhân dân Đại Việt.
- Do sức mạnh đoàn kết to lớn của dân tộc.
- Do biết kế thừa và phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc.
- Do công lao và tài năng của anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt trong việc sử dụng lối đánh rất độc đáo.
- Toàn dân tích cực tham gia kháng chiến.
- Công cuộc chuẩn bị kháng chiến chu đáo, toàn diện, với hai hội nghị: Bình Than và Diên Hồng.
- Có sự lãnh đạo tài tình của nhà quân sự thiên tài: Trần Hưng Đạo, vua nhà Trần, chiến lược, chiến thuật đúng đắn, sáng tạo.
- Tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn dân mà nòng cốt là quân đội nhà Trần.
Ý nghĩa
- Cuộc kháng chiến thắng lợi thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường của các tầng lớp nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh chống xâm lược Tống bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc, trong đó có đồng bào các dân tộc ít người.
- Kháng chiến thắng lợi thể hiện tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trên dưới một lòng, dưới sự chỉ huy tài giỏi của Lý Thường Kiệt. Chiến công của ông xứng đáng được sử sách dân tộc lưu mãi muôn đời.
- Kháng chiến chống Tống thắng lợi đập tan ý chí xâm lược của giặc, buộc nhà Tống từ bỏ hoàn toàn mộng thôn tính Đại Việt. Đất nước bước vào thời kì thái bình.
- Đánh bại quân xâm lược hung tàn, bảo vệ nền độc lập.
- Khẳng định lòng yêu nước và ý chí quyết tâm bảo vệ đất nước của dân tộc ta.
- Nâng cao lòng tự hào dân tộc.
- Góp phần làm cho phong phú truyền thống quân sự của nhân dân ta.
- Để lại bài học vô giá "Khoan thủ sức dân, để làm kế sâu rễ bền gốc.
- Ngăn chặn ý đồ của nhà Nguyên trong việc xâm lược các nước khác.
3. Tại sao Lý Thường Kiệt lại chọn sông Như Nguyệt làm phòng tuyến chống quân Tống ?
- Sông Như Nguyệt bấy giờ khá sâu, rộng, lại là vị trí quan trọng trên đường Bắc – Nam. Đây là con sông chặn ngang tất cả các ngả đường bộ từ Quảng Tây (Trung Quốc) vào Thăng Long.
- Sông Như Nguyệt như một chiến hào tự nhiên rất khó có thể vượt qua.
- Lực lượng chủ yếu của nhà Tống là bộ binh.
Do vậy, Lý Thường Kiệt lại chọn sông Như Nguyệt làm phòng tuyến chống quân xâm lược Tống. Phòng tuyến được đắp bằng đất cao, vững chắc, có nhiều lớp giậu tre dày đặc, dọc theo khúc sông từ Đa Phúc đến Phả Lại, dài khoảng 100 km.
4. Trình bày diễn biến cuộc kháng chiến trên phòng tuyến Như Nguyệt năm 1077. Tại sao nói trận đánh ở sông như Nguyệt là một trong những trận đánh tuyệt vời trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta?
Diễn biến:
 Chờ mãi không thấy quân thủy đến, quân Tống bắc cầu phao, đóng bè tiến qua sông đánh vào phòng tuyến của ta nhưng đều bị thất bại.
Để khích lệ tinh thần chiến đấu của quân sĩ, đêm đêm Lí Thường Kiệt cho người vào ngôi đền bên bờ sông ngâm vang câu thơ:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư" 
Thất vọng, Quách Qùy ra lệnh "Ai bàn đánh sẽ bị chém" và chuyển sang củng cố phòng ngự. Quân sĩ ngày một chán nản, mệt mỏi, chết dần, chết mòn.
Vào một đêm cuối xuân 1077, Lí Thường Kiệt chỉ huy đại quân bất ngờ đánh vào doanh trại giặc. Quân Tống thua to bị tiêu diệt hơn quá nửa. 
Lí Thường Kiệt chủ động cho người sang đề nghị "giảng hòa" với Quách Quỳ, Quách Quỳ chấp nhận ngay. Quân Tống vội vã rút về nước. 
Trận đánh ở sông như Nguyệt là một trong những trận đánh tuyệt vời trong lịch sử dân tộc vì:
- Phòng tuyến Như Nguyệt thể hiện rõ tinh thần chủ động, quyết tâm kháng chiến của dân tộc ta và nghệ thuật lợi dụng địa hình cũng như tài chỉ huy quân sự của Lí Thường Kiệt.
- Là một trong những công trình quân sự kiên cố, hội tụ 3 yếu tố "thiên thời địa lợi nhân hòa", cùng với quyết tâm chống giặc cứu nước của toàn dân tộc đã góp phàn làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến. 
5. Em hãy nêu những nét độc đáo trong cách đánh giặc của Lý Thường Kiệt.
    - Chặn giặc ở chiến tuyến sông Như Nguyệt.
    - Diệt thủy quân của giặc, đẩy giặc vào thế bị động.
    - Mở cuộc tấn công khi thời cơ đến.
    - Giặc thua nhưng lại giảng hòa với giặc.
Kế sách “vườn không nhà trống” được sử dụng đầu tiên ở triều đại nào? Chống quân xâm lược nào? Vì sao ta chủ trương thực hiện kế sách này? Trong thời kì chống Pháp, chống Mĩ, kế sách này có còn phù hợp không? 
+ Kế sách “vườn không nhà trống” là một kế sách tuyệt vời được sử dụng đầu tiên vào thời nhà Trần chống quân MÔng cổ.
+ Ta chủ trương sử dụng kế sách này vì:
- Ban đầu địch còn mạnh, ta chưa thể đánh giáp lá cà với địch.
- Địch đem quân từ xa đến rất cần đến lương thực, giặc cứ nghĩ sang nước ta xâm lược rồi cướp lấy thực phẩm của nhân dân ta nhưng không ngờ nhà Trần đã biết trước được và cho thực hiện một kế hoạch vô cùng tuyệt vời. Với kế sách này làm cho quân giặc rơi vào tình thế khó khăn, khốn đốn. địch từ thế chủ động thành thế bị động, tạo thời cơ thuận lợi để ta phản công tiêu diệt đuổi địch ra khỏi bờ cõi.
+ Với lý do trên, kế sách này hoàn toàn phù hợp trong thời kì chống Pháp, chống Mĩ và trên thực tế ta đã thực hiện.
7. Cách đánh giặc của nhà Trần trong cuộc kháng chiến lần thứ ba có gì giống và khác so với lần thứ hai ?
* Giống nhau: Tránh thế giặc mạnh lúc đầu, ta chủ động rút lui để bảo toàn lực lượng, chờ thời cơ để phản công tiêu diệt giặc, thực hiện kế hoạch "vườn không nhà trống".
* Khác nhau:
    + Lần lần thứ ba tập trung tiêu diệt đoàn thuyền chở lương thực của Trương Văn Hổ để quân Nguyên không có lương thảo nuôi quân, dồn chúng vào thế bị động, khó khăn.
    + Chủ động bố trí trận địa bãi cọc trên sông Bạch Đằng để tiêu diệt thuyền chiến của giặc và đánh tan ý đồ xâm lược của nhà Nguyên đối với nước ta.
8. Em hãy nêu một số dẫn chứng để thấy các tầng lớp nhân dân thời Trần đều tham gia kháng chiến chống quân Mông – Nguyên.
- Khi được tin quân Mông Cổ chuẩn bị đánh nước ta, theo lệnh vua Trần, cả nước sắm sửa vũ khí, các đội dân binh được thành lập, ngày đêm luyện tập võ nghệ, sẵn sàng chiến đấu.
    - Khi giặc tấn công, cả ba lần nhân dân đều thực hiện "vườn không nhà trống" để làm cho địch gặp nhiều khó khăn và bị động.
    - Ý chí quyết tâm đánh giặc thể hiện rất cao tại Hội nghị Diên Hồng, các bậc phụ lão đều quyết tâm "đánh", quân sĩ đều khắc vào tay hai chữ "Sát Thát".
    - Vua tôi nhà Trần quyết tâm đánh giặc:vua trực tiếp chỉ huy, cận thần cương quyết đánh giặc, Trần Thủ Độ nói :" Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo", Trần Hưng Đạo nói :"Nếu bệ hạ muốn hàng giặc thì trước hết hãy chém đầu thần rồi hãy hàng".
    - Quân dân một lòng bố trí trận địa cộc ngầm để mai phục địch trên sông Bạch Đằng.
9. Đóng góp của Trần Quốc Tuấn trong ba lần kháng chiến chống quân Mông – Nguyên.
    - Ông được vua Trần giao cho trọng trách Quốc công Tiết chế - chỉ huy cuộc kháng chiến, soạn "Hịch tướng sĩ" để động viên tinh thần chiến đấu của quân đội.
    - Trần Quốc Tuấn là một nhà Lý luận quân sự tài ba, ông là tác giả của bộ binh thư nổi tiếng: Binh thư yếu lược, Vạn kiếp tông bí truyền thư.
    - Trước thế giặc mạnh ông đều cho lui binh để đảm bảo lực lượng chờ thời cơ để đánh.
    - Khi quân địch ở Thăng Long gặp khó khăn, tuyệt vọng phải rút quân, Trần Quốc Tuấn mở cuộc phản công và tiến hành trận mai phục trên sông Bạch Đằng, tạo nên chiến thắng quyết định trước quân xâm lược.
10. Nước Đại Việt thời Lý – Trần đã đạt được ... hân dân, các thành phần dân tộc đều tham gia đánh giặc, bảo vệ quê hương đất nước tạo thành khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó các quý tộc, vương hầu nhà Trần là hạt nhân lãnh đạo.
	Sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho mỗi cuộc kháng chiến. Đặc biệt, nhà Trần rất quan tâm chăm lo sức dân, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân bằng nhiều biện pháp để tạo nên sự gắn bó giữa triều đình và nhân dân.
	Tinh thần hi sinh, quyết chiến quyết thắng của toàn dân mà nòng cốt là quân đội.
	Chiến lược, chiến thuật đúng đắn, sáng tạo của vương triều Trần, đặc biệt là của vua Trần Nhân Tông, các danh tướng Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư đã buộc giặc từ thế mạnh chuyển dần sang thế yếu, từ chủ động chuyển sang bị động để tiêu diệt chúng, giành thắng lợi.
	Ý nghĩa lịch sử:
	Đập tan tham vọng và ý chí xâm lược Đại Việt của đế chế Mông - Nguyên, bảo vệ được độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của dân tộc.
	Thể hiện sức mạnh của dân tộc, đánh bại mọi kẻ thù xâm lược (góp phần nâng cao lòng tự hào dân tộc, củng cố niềm tin cho nhân dân...).
	Góp phần xây dựng truyền thống dân tộc, xây dựng học thuyết quân sự, để lại nhiều bài học cho đời sau trong cuộc đấu tranh chống xâm lược.
NƯỚC ĐẠI VIỆT ĐẦU THẾ KỈ XV, THỜI LÊ SƠ
Trình bày những nét chính diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn?
	Giải phóng Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa và tiến quân ra Bắc (1424 - 1426):
	Giải phóng Nghệ An (năm 1424): Theo kế hoạch của Nguyễn Chích, được Lê Lợi chấp thuận, ngày 12 - 10 -1424, nghĩa quân bất ngờ tấn công Đa Căng (Thọ Xuân - Thanh Hóa), sau đó hạ thành Trà Lân. Trên đà thắng lợi, tiến đánh Khả Lưu, phần lớn Nghệ An được giải phóng.
	Giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa (năm 1425): Tháng 8 - 1425, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân chỉ huy nghĩa quân tiến vào giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa, vùng giải phóng của nghĩa quân đã kéo dài từ Thanh Hóa đến đèo Hải Vân. Quân Minh chỉ còn mấy thành lũy bị cô lập và bị nghĩa quân vây hãm.
	Tiến quân ra Bắc, mở rộng phạm vi hoạt động (cuối năm 1426): tháng 9 - 1426, nghĩa quân chia làm ba đạo tiến quân ra Bắc:
	- Đạo thứ nhất, tiến ra giải phóng miền Tây Bắc, ngăn chặn viện binh từ Vân Nam sang.
	- Đạo thứ hai, giải phóng vùng hạ lưu sông Nhị (sông Hồng) và chặn đường rút lui của giặc từ Nghệ An về Đông Quan.
	- Đạo thứ ba, tiến thẳng về Đông Quan.
	Nghĩa quân đi đến đâu cũng được nhân dân ủng hộ về mọi mặt và đã chiến thắng nhiều trận lớn, quân Minh phải rút vào thành Đông Quan cố thủ. Cuộc khởi nghĩa chuyển sang giai đoạn tổng phản công.
	Khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng (cuối năm 1427 - cuối năm 1428):
	Trận Tốt Động - Chúc Động (cuối năm 1426):
	Tháng 10 - 1426, 5 vạn viện binh giặc do Vương Thông chỉ huy kéo vào thành Đông Quan, nâng số quân Minh ở đây lên 10 vạn. Để giành thế chủ động, Vương Thông tiến đánh quân chủ lực của nghĩa quân ở Cao Bộ (Chương Mĩ - Hà Tây). Biết trước được âm mưu của giặc, quân ta phục binh ở Tốt Động - Chúc Động. Kết quả, 5 vạn tên giặc bị thương tháo chạy về Đông Quan. Nghĩa quân thừa thắng kéo về vây hãm thành Đông Quan và giải phóng thêm nhiều châu, huyện.
	Trận Chi Lăng - Xương Giang (tháng 10 - 1427):
	Đầu tháng 10 - 1427, 15 vạn viện binh được chia thành hai đạo từ Trung Quốc kéo sang. Một đạo do Liễu Thăng chỉ huy từ Quảng Tây kéo vào Lạng Sơn. Đạo thứ hai do Mộc Thạnh chỉ huy từ Vân Nam kéo vào theo hướng Hà Giang.
	Ngày 8 - 10, Liễu Thăng bị nghĩa quân phục kích và giết ở ải Chi Lăng, Phó tướng là Lương Minh lên thay tiếp tục tiến xuống Xương Giang, bị nghĩa quân phục kích ở Cần Trạm, Phố Cát, bị tiêu diệt 3 vạn tên. Mấy vạn tên còn lại cố tiến xuống Xương Giang co cụm giữa cánh đồng nhưng bị nghĩa quân tấn công từ nhiều hướng, gần 5 vạn tên bị tiêu diệt, số còn lại bị bắt sống.
	Cùng lúc đó, Lê Lợi sai đem các chiến lợi phẩm ở Chi Lăng đến doanh trại Mộc Thạnh. Mộc Thạnh biết Liễu Thăng đã bị giết, hoảng sợ vội rút quân về nước.
	Nghe tin cả hai đạo viện binh bị tiêu diệt, Vương Thông ở Đông Quan khiếp đảm vội xin hòa và chấp nhận mở hội thề Đông Quan (10 - 12 - 1427) để được an toàn rút quân về nước. Lê lợi chấp nhận lời xin hòa.	 Ngày 3 - 1 - 1428, toán quân cuối cùng của Vương Thông rút khỏi nước ta. Cuộc khởi nghĩa chống quân Minh kết thúc thắng lợi. Đất nước sạch bóng quân thù. 
	Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
	Nguyên nhân:
	Nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất, quyết tâm giành lại độc lập tự do cho đất nước.
	Tất cả các tầng lớp nhân dân không phân biệt già trẻ, nam nữ, các thành phần dân tộc đều đoàn kết đánh giặc, hăng hái tham gia cuộc khởi nghĩa, gia nhập lực lượng nghĩa quân, tự vũ trang đánh giặc, ủng hộ, tiếp tế lương thực cho nghĩa quân.
	Nhờ đường lối chiến lược, chiến thuật đúng đắn, sáng tạo của bộ tham mưu nghĩa quân, đứng đầu là Lê Lợi, Nguyễn Trãi.
	Ý nghĩa lịch sử:
	Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi đã kết thúc 20 năm đô hộ tàn bạo của phong kiến nhà Minh.
	Mở ra một thời kì mới trong lịch sử dân tộc - thời Lê sơ. 
 NƯỚC ĐẠI VIỆT Ở CÁC THẾ KỈ XVI - XVII
	Trình bày những chiến công to lớn của phong trào Tây Sơn?
	+ Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút (1785) tiêu diệt quân Xiêm:
	Nguyễn Ánh cầu cứu vua Xiêm, năm 1784, hơn 5 vạn quân thủy bộ Xiêm đã kéo vào đánh chiếm miền Tây Gia Định (các tỉnh miền Tây Nam Bộ) và gây nhiều tội ác đối với nhân dân.
	Tháng 1 - 1785, Nguyễn Huệ kéo quân vào Gia Định và bố trí trận địa ở khúc sông Tiền, đoạn từ Rạch Gầm đến Xoài Mút (Châu Thành - Tiền Giang) để nhử quân địch. Quân Xiêm bị tấn công bất ngờ nên bị tiêu diệt gần hết, chỉ còn vài nghìn tên sống sót theo đường bộ chạy về nước. Nguyễn Ánh thoát chết, sang Xiêm lưu vong.
	Đây là một trong những trận thủy chiến lớn nhất và lừng lẫy nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Chiến thắng quân xâm lược Xiêm đã đưa phong trào Tây Sơn phát triển lên một trình độ mới. Từ đây, phong trào Tây Sơn trở thành phong trào quật khởi của cả dân tộc.
	+ Quang Trung đại phá quân Thanh:
	Vì hèn nhát, lo sợ thế lực nhà Tây Sơn, Lê Chiêu Thống sai người sang cầu cứu nhà Thanh. Vua Càn Long nhà Thanh nhân cơ hội này thực hiện âm mưu xâm lược nước ta để mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam.
	Cuối năm 1788, Tôn Sĩ Nghị chỉ huy 29 vạn quân, chia thành 4 đạo tiến vào nước ta.
	Trước thế mạnh lúc đầu của giặc, Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm một mặt cho quân rút khỏi Thăng Long về xây dựng phòng tuyến ở Tam Điệp - Biện Sơn; một mặt cho người về Phú Xuân cấp báo với Nguyễn Huệ.
	Tại Thăng Long, quân Thanh cùng bè lũ Lê Chiêu Thống ra sức cướp bóc, đốt nhà, giết người trả thù rất tàn bạo... khiến cho lòng căm thù của nhân dân ta đối với quân cướp nước và bè lũ bán nước đã lên đến cao độ.
	Trước tình thế đó, Nguyễn Huệ đã lên ngôi Hoàng đế (1788), lấy niên hiệu là Quang Trung và lập tức tiến quân ra Bắc. Trên đường đi, đến Nghệ An và Thanh Hóa, Quang Trung đều tuyển thêm quân.
	Từ Tam Điệp, Quang Trung chia quân làm năm đạo: đạo chủ lực do Quang Trung chỉ huy tiến thẳng về Thăng Long; đạo thứ hai và thứ ba đánh vào Tây Nam Thăng Long; đạo thứ tư tiến ra Hải Dương; đạo thứ năm tiến lên Lạng Giang chặn đường rút lui của giặc.
	Đêm 30 Tết, quân ta vượt sông Gián Khẩu (sông Đáy), tiêu diệt toàn bộ quân địch ở đồn tiền tiêu. Mờ sáng ngày mồng 5 Tết, quân ta đánh đồn Ngọc Hồi, quân Thanh chống cự không nổi, bỏ chạy tán loạn. Cùng lúc đó đạo quân của Đô đốc Long đánh đồn Đống Đa, tướng giặc là Sầm Nghi Đống khiếp sợ, thắt cổ tự tử. Tôn Sĩ Nghị bàng hoàng cùng một số võ quan bỏ lại quân lính, vượt sông Nhị (sông Hồng) chạy trốn. Trưa mồng 5 Tết, Quang Trung cùng đoàn quân Tây Sơn chiến thắng kéo vào thành Thăng Long.
	3. Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của phong trào Tây Sơn?
	+ Nguyên nhân thắng lợi:
	Nhờ ý chí đấu tranh chống áp bức bóc lột, tinh thần yêu nước, đoàn kết và hi sinh cao cả của nhân dân ta.
	Nhờ có sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Quang Trung và bộ chỉ huy nghĩa quân. 
	+ Ý nghĩa lịch sử:
	Thắng lợi của phong trào Tây Sơn trong việc lật đổ chính quyền phong kiến thối nát Nguyễn - Trịnh - Lê đã xóa bỏ ranh giới chia cắt đất nước hàng trăm năm. Đặt nền tảng cho việc thống nhất quốc gia.
	Thắng lợi của phong trào Tây Sơn trong việc chống quân xâm lược Xiêm và Thanh có ý nghĩa lịch sử to lớn: giải phóng đất nước, giữ vững nền độc lập của dân tộc, một lần nữa đập tan tham vọng xâm lược nước ta của các đế chế quân chủ phương Bắc.
VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX
	 Chế độ phong kiến nhà Nguyễn:
	1. Nhà Nguyễn đã tiến hành lập lại chế độ PK tập quyền như thế nào?
	Khoảng giữa năm 1802, Nguyễn Ánh kéo quân ra Bắc rồi tiến thẳng về Thăng Long, Nguyễn Quang Toản chạy lên Bắc Giang thì bị bắt. Triều đại Tây Sơn chấm dứt.
	Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Gia Long, chọn Phú Xuân làm kinh đô, lập ra triều Nguyễn; năm 1806, lên ngôi Hoàng đế.
	Nhà Nguyễn lập lại chế độ PK tập quyền: vua trực tiếp điều hành mọi việc từ trung ương đến địa phương; ban hành bộ Hoàng triều luật lệ (Luật Gia Long) năm 1815.
	Các năm 1831 - 1832, nhà Nguyễn chia cả nước thành 30 tỉnh và 1 phủ trực thuộc (Thừa Thiên); quân đội bao gồm nhiều binh chủng, xây thành trì và thiết lập hệ thống trạm ngựa dọc theo chiều dài đất nước.
	2. Kinh tế dưới triều Nguyễn:
	+ Về nông nghiệp: 
	Chú ý việc khai hoang và thi hành các biện pháp di dân lập ấp và đồn điền; đặt lại chế độ quân điền...
	Tuy một số huyện mới được thành lập (do lấn biển) như: Tiền Hải (Thái Bình), Kim Sơn (Ninh Bình) và hàng trăm đồn điền được thành lập ở Nam Kì nhưng không mang lại hiệu quả thiết thực cho nông dân. Thời Tự Đức, đê Văn Giang (Hưng Yên) 18 năm liền bị vỡ.
	+ Về công thương nghiệp:
	Nhà nước lập nhiều xưởng đúc tiền, đúc súng, đóng tàu... Ngành khai thác mỏ được mở rộng, nhưng cách khai thác còn lạc hậu và hoạt động thất thường.
	Các nghề thủ công vẫn phát triển nhưng phân tán, thợ thủ công phải nộp thuế sản phẩm nặng nề. Buôn bán trong nước có nhiều thuận lợi do đất nước đã thống nhất, xuất hiện thêm nhiều thị tứ mới.
	Về ngoại thương, nói chung nhà nước hạn chế buôn bán với nước ngoài.

File đính kèm:

  • doctai_lieu_boi_duong_hoc_sinh_gioi_lich_su_lop_7.doc