Tài liệu Bình giảng một số điểm sáng thẩm mĩ (tín hiệu nghệ thuật)
rường Sơn đông nắng tây mưa
Ai chưa đến đó như chưa rõ mình
Tầng nghiã 1: Trường Sơn của hành trình kiến tạo (nghĩa định danh).
Tầng nghĩa 2: Trường Sơn trong trường hợp xác định, trong cấu tạo điều kiện -
kết quả là biểu hiện về tinh thần hi sinh gian khổ; l à biểu hiện con người lịch sử, biến
lượng thành chất cho thơ.
Dấu hiệu của nghệ thuật thơ: (chưa đến/chưa rõ) có thể được sinh ra từ một
hoặc những yếu tố đã biết : (đông nắng/tây mưa) dấu hiệu nghệ thuật thơ hàm chứa
năng lượng thông tin thẩm mĩ, hướng tới phát hiện hoặc triển khai h ình tượng trên
những bình diện mới.
Bây giờ mận mới hỏi đào:
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa ?
Mận hỏi thì đào xin thưa :
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
“Bây giờ” chứa đựng năng lượng thông tin thẩm mĩ. Cái chuyện hệ trọng ấy cớ
sao phải đến bây giờ mà không phải là chuyện được hỏi từ nhiều khi về trước hoặc mai
sau mới hỏi ? Năng lượng thông tin ở đây là tính thời điểm xác định, người ta có thể
vượt qua những yếu tố tiền giả định (logic thông tin quan hệ : mận – đào - vườn hồng)
mà chỉ chú ý đến tính thời điểm “bây giờ” và “mới hỏi”, tức hàm ẩn một quá trình
quan hệ. Chỉ “bây giờ” mới là thời điểm “hỏi” chứ không phải bất cứ một khi nào
khác
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu Bình giảng một số điểm sáng thẩm mĩ (tín hiệu nghệ thuật)
1TƯ LIỆU THAM KHẢO. BÌNH GIẢNG MỘT SỐ ĐIỂM SÁNG THẨM MĨ (TÍN HIỆU NGHỆ THUẬT) Giảng : Giới thiệu, phân tích, thuyết minh, giải thích, chú giải nhằm l àm cho người đọc hiểu nđược văn bản một cách toàn vẹn với những chỗ tinh tế, sâu sắc h àm ẩn, nắm bắt được lớp lang, mạch lạc của tác phẩm. Giảng là cơ sở để hiểu từ đó giúp cho việc b ình có sức thuyết phục. Bình: Đánh giá, nhận xét, khen chê với các giá trị của tác phẩm. Bình tứ thơ, hình tượng thơ tức là thế giới nghệ thuật của thơ, qua đó bình tài thơ và tâm hồn nhà thơ. Bình về nhân cách, phẩm chất, bản lĩnh nh à thơ trước cuộc đời. Bình về kĩ xảo, nghệ thuật của nhà thơ, sự am hiểu từ ngữ, thanh luật của tác giả (chữ nghĩa, nhạc điệu, nhịp điệu, h ình ảnh). Bình về ý nghĩa cách tân của nghệ thuật tác phẩ m (sáng tạo độc đáo), tính dân tộc, tính hiện đại. 1. Trường Sơn đông nắng tây mưa Ai chưa đến đó như chưa rõ mình Tầng nghiã 1: Trường Sơn của hành trình kiến tạo (nghĩa định danh). Tầng nghĩa 2: Trường Sơn trong trường hợp xác định, trong cấu tạo điều kiện - kết quả là biểu hiện về tinh thần hi sinh gian khổ; l à biểu hiện con người lịch sử, biến lượng thành chất cho thơ. Dấu hiệu của nghệ thuật thơ: (chưa đến/chưa rõ) có thể được sinh ra từ một hoặc những yếu tố đã biết : (đông nắng/tây mưa) dấu hiệu nghệ thuật thơ hàm chứa năng lượng thông tin thẩm mĩ, hướng tới phát hiện hoặc triển khai h ình tượng trên những bình diện mới. 2. Bây giờ mận mới hỏi đào: Vườn hồng đã có ai vào hay chưa ? Mận hỏi thì đào xin thưa : Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào. “Bây giờ” chứa đựng năng lượng thông tin thẩm mĩ. Cái chuyện hệ trọng ấy cớ sao phải đến bây giờ mà không phải là chuyện được hỏi từ nhiều khi về trước hoặc mai sau mới hỏi ? Năng lượng thông tin ở đây là tính thời điểm xác định, người ta có thể vượt qua những yếu tố tiền giả định (logic thông tin quan hệ : mận – đào - vườn hồng) mà chỉ chú ý đến tính thời điểm “bây giờ” và “mới hỏi”, tức hàm ẩn một quá trình quan hệ. Chỉ “bây giờ” mới là thời điểm “hỏi” chứ không phải bất cứ một khi nào khác. 3. Anh dắt em vào cõi Bác xưa Đường dài hoa trắng nắng đu đưa Có hồ nước nặng soi tăm cá Có bưởi cam thơm, mát bóng dừa. Cuộc sống thứ hai của văn bản nghệ thuật - lớp nghĩa văn cảnh – không phải do sự suy luận vô cớ, mà thường là lôgic đời sống hiện hình phía sau những con chữ tường 2minh. Một chữ trong câu (hoặc trong bài) sẽ rất quan trọng nếu nó là trung tâm mang nghĩa. Khung cảnh nơi Bác ở dường như vẫn thế, nhưng cả một chuỗi thông tin miêu tả không gian và sự vật : đường xoài, hồ nước, bưởi cam, vốn rất đỗi quen thuộc dường như đã nhuốm một nguồn ánh sáng thiêng liêng kì lạ. Chỉ với sức gợi của một chữ “cõi”,tất cả cảnh vật nơi đây đã thuộc về một thế giới tôn kính, trang nghi êm của tột cùng xót xa, hoài niệm. Nếu thay “cõi” bằng “lối” chẳng hạn, đoạn thơ lập tức chuyển sang biểu hiện nghĩa trung tính hoặc không xác định. 4. KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ TRÊN LƯNG MẸ - NGUYỄN KHOA ĐIỀM Kết cấu bài thơ chia làm ba đoạn, mỗi đoạn đều được mở đầu bằng lời của tác gi ả và kết thúc bằng lời ru của mẹ. Đó là bài ca về những em bé lớn lên theo quá trình mẹ tham gia kháng chiến. Đoạn 1, em bé lớn lên cùng gian lao kháng chiến, em lớn lên trong tình cảm thiêng liêng của mẹ với bộ đội, cách mạng: Em Cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng Câu thứ 7 đột ngột chuyển ý: Lưng đưa nôi và tim hát thành lời Mẹ thương A Kay mẹ thương bộ đội. Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần. Đó là lời tâm tình, nhắn nhủ, lời ru của tác giả với Cu Tai l àm nền cho lời ru của mẹ tha thiết cất lên (tiếng lòng, ước mơ, khao khát tình yêu của mẹ -con, mẹ- cách mạng) Đoạn 2, mở đầu bằng lời tác giả, điệp hai câu đầu. H ình ảnh giấc ngủ được thể hiện trong mối quan hệ so sánh tượng trưng: Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng Mặt trời được hiểu như sức chiếu toả của bình minh, nguồn ánh sáng, ý nghĩa, niềm hi vọng của cuộc đời Lời mẹ ru: Mẹ thương A Kay , mẹ thương làng đói Trong lời ru của mẹ, vẫn cấu trúc lặp và da diết: Ngủ ngoan A Kay ơi, ngủ ngoan A Kay hỡi Tình cảm của mẹ với Cu tai thể hiện từ sự gắn bó với bộ đội, đến l àng đến đất nước. đặc biệt là Cu tai, từ ước mơ cụ thể phục vụ kháng chiến (con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần ) đến ước mơ sinh tồn vĩnh cửu ( Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều ) và ước mơ theo xu hướng hoàn thiện lí tưởng của mẹ ( Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ). Cấu trúc tình cảm: Mẹ thương A Kay - mẹ thương làng đói - mẹ thương đất nước Con mơhạt gạo – con mơhạt bắp – con mơđược gặp Bác Hồ. Ở đây có sự lặp lại khuôn h ình để phát triển nội dung ý nghĩa, khẳng định t ình cảm. 5. TRE VIỆT NAM - NGUYỄN DUY 3Cấu trúc thơ : Thân gầy guộc lá mong manh Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi Ở đâu tre cũng xanh tươi Cho dù đất sỏi, đá vôi bạc màu. Phát sinh những liên tưởng, so sánh đã phác hoạ sức mạnh đoàn kết, sự vun đắp chung giữa các cá thể độc lập. Đây là hình tượng độc đáo về sức mạnh, bản sắc dân tộc: mỗi cây tre phải là một cơ thể sống kiên cường trong cái cộng đồng chung ấy. Rễ siêng không ngại đất nghèo Thân bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù Cấu trúc hô ứng xác lập quan hệ giữa số rễ - sự cần cù. Số rễ - sự cần cù được trừu tượng hoá đi, nhòe đi, ý nhiều hơn lời. Cần cù lao động làm trung tâm liên tưởng cho con người. Đó chính là đối tượng miêu tả trong thơ. 6. QUA ĐÈO NGANG – BÀ HUYỆN THANH QUAN Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom, dưới núi tiều vài chú, Lác đác, ven sông chợ mấy nhà. Đoạn thơ như bức tranh thuỷ mặc, giản dị như chính cảnh và người. Cảnh thú vị. Cái số nhiều của khung cảnh thiên nhiên: đá nhiều, cây nhiều, hoa nhiều là những cái nhiều cụ thể. Khi người đọc đang trong tâm trạng lâng lâng bởi cỏ cây th ì bất ngờ cảm xúc bị lắng xuống bởi cái “v ài” về số lượng chú tiểu và cái “ mấy’’ về số lượng nhà nơi bến sông. Cảnh vật miêu tả vừa buồn mênh mông xa vắng vừa điểm xuyết cái đẹp hoang sơ của quá khứ. Điều đó được tạo ra bởi sức mạnh của phương thức tạo hình đối lập giữa “nhiều” và “ít”. 7. THU ĐIẾU - NGUYỄN KHUYẾN * Cách hiểu thứ nhất: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc cần câu bé tẻo teo Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo Tầng cao lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo Bó gối ôm cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Cảnh chiều thu được tác giả dùng phương thức tạo hình để vẽ lên. Tất cả đều rất thực. Một thiên nhiên thực, một ngõ trúc thực, một sóng nước gợn thực, và một tầng mây lơ lửng cũng là thực nốtNăng lực tạo h ình của cả bài thơ đã vượt qua cấu trúc của các câu mà ở đó mỗi câu là một lời chỉ dẫn cho một bức tranh tĩnh vật với những màu sắc bình dị, cụ thể . Bài thơ cực tả một cảnh tĩnh. Cái tĩnh đó trước hết thể hiện ở hệ thống ngôn từ: lạnh lẽo, trong veo, bé tẻo teo, lơ lửng, quanh co, vắng ngắt. Đó là những từ láy hoặc 4ghép sắc thái hoá. Tất cả đều chỉ các tính chất, đ ã đạt đến đỉnh điểm. Vì đã vút lên đến đỉnh điểm nên đọng lại ở đó, dừng lại, không vận động nữa. Nh à thơ lấy động để tả tĩnh “vẽ mây nẩy trăng”. để miêu tả cảnh tĩnh, mà cứ tĩnh mãi sẽ nhàm, cho nên phải đưa cái động vào. Bó gối ôm cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Những cái “động” trong bài thơ có lấy gì làm mạnh mẽ? Chính nhờ sự chết lặng của không gian mà chúng ta mới nhận ra cái động không đáng gọi l à động đó. Có cái động thật : “gợn”. Còn “đớp” có xảy ra đâu, “cá đâu đớp động”và phải lặng lẽ thế nào đó một tiếng lá bay mới nghe được thành “vèo”. Vèo, nét bay của lá là nét động duy nhất của bài thơ. Bài thơ là bức tranh tuyệt tác về sự vắng lặng của m ùa thu. Sự chết lặng của cảnh thu chính là tâm trạng của Nguyễn Khuyến và của cả lớp người như Nguyễn Khuyến. (Sự thống nhất về ngữ nghĩa giữa các từ có thể gọi l à sự cộng hưởng ngữ nghĩa. Cũng như sự cộng hưởng âm thanh, ý nghĩa của các từ h ài hoà với nhau, tôn nhau lên, tạo ra những dao động ngữ nghĩa. Dao động n ày sẽ dội vào tâm tình người đọc, để lại trong đó những dấu ấn sâu đậm). * Cách hiểu thứ hai: “ Cá đâu đớp động dưới chân bèo” có thể được hiểu là cá không cắn câu mà lại “đớp động” dưới chân bèo, trêu ngươi mới tức chứ! Vừa bực mình, vừa buồn cười. Bởi thế, có cá mà vẫn than thở, có tiếng cá mà vẫn chẳng “ loãng đi nỗi cô đơn và nỗi đau”. Cảnh rất thực, khơi được đồng cảm nơi người đọc. Bài thơ kết thúc bằng cái giỡn đùa đầy kịch tính của tạo hoá. Cảnh oái oăm đã tạo nên nụ cười kín đáo, đôn hậu (phong cách Nguyễn Khuyến). Vui là vui gượng kẻo làNụ cười này được tạo ra một cách có ý thức, làm vơi nỗi niềm bất đắc dĩ và bất đắc ý của thú vui nhàn tản. Câu cá thường than không câu được cá, cá không chịu cắn câu, sao lại than cá không đớp động, mà lại phải là “đớp động dưới chân bèo”? Cá không cắn câu nhưng nếu đớp động dưới chân bèo thì thôi không than thở chăng? ! Hay là ông câu chỉ quan tâm tới chốn chân bèo mà không là chỗ khác, để rồi cá không đớp ở đó thì buồn? Có ai buồn kiểu đó không? Hay l à Nguyễn Khuyến câu cá bằng bèo, cá không đớp bèo thì ông buồn chăng? Dù chủ ý thế nào thì câu thơ ra đời và vào cuộc sống, chịu sự chi phối của logic cuộc sống, nó có đời sống ri êng của nó, người đọc tất hiểu được nó. Nếu “đâu” ở đây là “đâu đó” thì câu thơ thêm được cả sự, cả tình, cả hình, cả tiếng. Hồn thơ thanh cao, tứ thơ dồn nén năng lượng . Bức tranh thu không tĩnh lặng tuyệt đối. Tiếng cá đớp động, sóng gợn lăn tăn, lá v àng đưa vèo trước gió cho thấy điều đó. Cảnh có động, nhưng động rất nhỏ, rất gọn; động vừa đủ để góp vào cái phơn phớt sắc buồn của cảnh vật; động vừa đủ để ngân nga vẻ đẹp tuyệt vời và thanh bình của quê hương đất nước; động để bức tranh thu không chết, để bức tranh quê hương sống mãi trong lòng bạn đọc. Cá chỉ đớp động dưới chân bèo, kéo nhà thơ trở về thực tại. Dường như cách kết thúc này ẩn chứa một nỗi sầu mang mang cô đ ơn, gần như vô vọng của nhà thơ trước thực tại. Lời th ... ng của quá khứ tươi đẹp, là âm hưởng của “một thời xa vắng” đã bị Mị lãng quên trong những mùa đông dài đầy “giông tố” của cuộc đời. Từng tiếng sáo như rót tâm sự vào lòng Mị. Nó bồi hồi, quyến rũ, nó réo rắt mời Mị thoát khỏi hiện tại cay đắng về lại ngày xưa – cái thời : “ có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Lúc này đây, Mị cũng như Huệ Chi trong tiểu thuyết “Cửa biển” của nhà văn Nguyên 11 Hồng, cũng đang sống trong mộnh du cứ “ vùng bước đi” theo tiếng gọi huyễn hoặc thân quen, và tiếng sáo kia đã trở thành tiếng gọi của Mẹ, tiếng gọi của t ình người, tình đời, tiếng gọi của sự sống. Có thể nói tiếng sáo đ ã trở thành nhịp cầu nối giữa hiện tại đau khổ với quá khứ tươi đẹp, là con thuyền đưa Mị về với bến xưa dẫu chỉ là trong tâm tưởng. Cùng với cảnh sắc Hồng Ngài khi Xuân về và men rượu , tiếng sáo đã cộng hưởng, làm thức tỉnh ý niệm về sự sống, sự tồn tại trong Mị. Nh à văn Tô Hoài đã rất tài tình khi dung các trừơng độ, độ cao thấp của âm thanh tiếng sáo để diễn tả các cun g bậc tâm trạng, sự sáo trộn trong tâm t ư Mị và giúp người đọc khám phá chiều sâu nội tâm nhân vật. Anh ném pao, em không bắt Em không yêu, quả pao rơi rồi Quả pao rơi rồi, tình đầu mất và tuổi xuân của Mị cũng bị đời bỏ v ào cái hố sâu. Nhưng với bàn tay yêu thương, giàu tình nhân đạo, nhà văn Tô Hoài đã nâng Mị dậy, giúp Mị tìm lại sức sống ngày xưa. 28. MẢNH TRĂNG CUỐI RỪNG - NGUYỄN MINH CHÂU Màu sắc trong thơ văn nhiều khi mang một ý nghĩa thật lớn. Nó ám ảnh ng ười đọc, khiến cho tác phẩm văn học có một sức sống lâu bền, vượt thời gian. Như màu đỏ trong Cuộc chia li màu đỏ của nguyễn Mĩ, Màu xanh trong Mảnh trăng cuối rừng của Nghuyễn Minh Châu cũng có một sức ám ảnh thật k ì lạ. Trong chuyện cô Nguyệt mặc áo màu xanh: “ Cô ta mặc áo màu xanh chít hông vừa khít” . Nhưng có lẽ không dừng lại nở chi tiết tả thực ấy, nh à văn còn nhấn mạnh thêm màu áo đầy ẩn ý đó khi đưa nó gắn liền với hình bóng của nguyệt, hình bóng đã đi vào trong niềm thương nỗi nhớ của Lãm: “ Lúc nào cũng thấy trước mặt bóng một người con gái áo xanh”. Màu áo xanh ấy dường như đã biến thành một biểu tượng. Ta cũng bắt gặp màu xanh của ánh trăng đầu tháng: “Qua tấm kính trước mặt, hiện ra một ngọn đèn pháo sáng xanh lét run rẩy soi lòe nhòe ở trên đầu”. Chỉ một lần duy nhất, nhà văn miêu tả màu sắc của ánh trăng qua con mắt bất thần m ơ màng của chàng Lãm. Song đặc biệt nhất, tấm lòng của Nguyệt, tình yêu và niềm tin mãnh liệt của Nguyệt vào cuộc sống đã được ví như “cái sợi chỉ xanh óng ánh”. Truyện ngắn được nhà văn viết trong thời kì chiến tranh ác liệt, thương đau nhất. Vậy mà nhà văn vẫn gieo lên cái nền đau thương tang tóc ấy một màu xanh. Màu xanh ấy thấm đẫm tưởng nghệ thuật đầy chất nhân văn của nh à văn Nguyễn Minh Châu. Ấy là màu xanh của tình yêu, của niềm hi vọng, màu của hòa bình, màu của chính nghĩa. Màu xanh lấn át màu tang tóc. Đặt vào đấy niềm khát vọng hòa bình, niềm hi vọng tin tưởng vào tương lai tươi sáng ở phía trước, nhà văn đã đề cao, khẳng định sự bất diệt, vĩnh hằng của tình yêu, của niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống tươi đẹp trong mỗi con người, đó là sự thắng thế với máu lửa của chiến tranh phi nghĩa, sự thắng thế tất yếu, đầy lạc quan . Có một sự so sánh thật đắc dịa giữa hai h ình ảnh: chiếc cầu và cái sợi chỉ xanh óng ánh trong tâm hồn Nguyệt. C ùng chịu sự giội xuống của bao nhiêu tấn bom đạn tàn phá, ấy vậy mà chiếc cầu kia: “ bị cắt làm đôi như một nhát dao phang rất ngọt ” còn cái sợi chỉ xanh óng ánh lại : “không hề đứt, không thể nào bị tàn phá nổi”, vẫn trường tồn bất diệt theo thời gian. Chất nhân văn làm nên giá trị, sức sống lâu bền của tác phẩm chính là ở chỗ ấy. 12 Có ai đó nó rằng: một chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. Đúng vậy, màu xanh có thể chỉ là một chi tiết nhỏ, xuất hiện một cách thoáng qua thôi, ấy vậy m à nó lại tạo sức ám ảnh lớn trong lòng độc giả. Chỉ đơn giản vì nó cũng được dùng để chuyển tải tư tưởng của nhà văn. 29. HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM Nhẹ nhàng và tinh tế, mơ màng và sâu lắng, những thiên truyện ngắn của Thạch Lam cứ đi vào lòng ta, thấm đẫm trong ta bao cảm xúc khó qu ên. Có khi chỉ là một chi tiết truyện, chỉ một “hột sáng” nhỏ bé thôi nhưng cũng có sức ám ảnh thật sâu sắc. Hai đứa trẻ - ở đó màu đen, bóng tối bao trùm ngự trị tất cả: “đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối, tối hết cả,con đ ường thăm thẳm ra sông , con đường qua chợ về nhà. Các ngõ vào làng lại còn sẫm đen hơn nữa”. Bóng tối là gam màu chủ đạo của bức tranh phố huyện u ám. Tr ên cái phông nền ấy là những thứ ánh sáng nhỏ bé cứ hiện ra và yếu dần từ đầu đến cuối thiên truyện. Khi chiều tà có màu “đỏ rực như lửa cháy” của mặt trời. Ánh mặt trời tắt, ánh sáng c òn lại ở những ngọn đèn. Rồi yếu hơn chỉ còn là ánh đom đóm trên đồng và ánh sao yếu ớt giữa thinh không. Ánh sáng nào cũng giàu sức gợi. nhưng không hiểu sao cái ánh sáng từ ngọn đèn chị Tí cứ ám ảnh ta, bắt ta phải day dứt, phải suy nghĩ m ãi không thôi. Ánh sáng của ngọn đèn chị Tí nhỏ bé lắm, cứ lay lắt cháy v à chỉ đủ sức “chiếu sáng một vùng đất nhỏ”. Một chấm sáng giữa đêm tối trong không gian hiu quạnh vắng vẻ, nó càng cố gắng sáng lên thì chỉ càng làm cho bóng tối thêm đậm nét hơn mà thôi! Chỉ có vậy ư? Ánh sáng ngọn đèn ấy như những khe sáng, hột sáng, những vệt sáng mà thôi! Không phải ngẫu nhiên mà ngọn đèn của hàng nước chị Tí cứ trở đi trở lại tới bảy lần trong mấy trang truyện ngắn nh ư một biểu tượng đầy ám ảnh về những kiếp sống nhỏ nhoi, lay lắt vô nghĩa giữa đ êm tối mênh mông của cuộc đời. Ngọn đèn leo lét và kiếp sống của mẹ con chị phải chăng l à điển hình cho cuộc sống quẩn quanh, ngoi ngóp nơi phố huyện nghèo này? Ngày thì mò cua bắt tép, cứ đêm đến lại đội cái chõng tre tàn ra sân ga bày hàng n ước bán. Đã biết là không bán được gì, mà vẫn cứ phải đi! Đó đâu phải là sống, đó chẳng qua là sự cầm chừng, cầm cự trong vô vọng. Không chỉ riêng chị Tí, Ở nơi ấy còn có ngững cư dân kiếm sống ban đêm khác. Mỗi người đều mang theo một ngọn đèn và chính cuộc đời họ cũng như những ngọn đèn tù mù ấy. “Ngọn đèn và ánh lửa cuộc đời” thật yếu ớt và tội nghiệp gợi lên niềm xót xa thương cảm trong lòng người đọc trước một cảnh sống mỏi mòn và ngưng đọng. Phố huyện đêm nay giống như đêm qua và đêm mai cũng vậy: mẹ con chị Tí lại lễ mễ dọn hàng, bác phở Siêu lại gánh hàng ra và thổi lửa, bác xẩm lại rải chiếu và bày cái thau sắt. Phố huyện giống như một sân khấu cuộc đời, chỉ độc diễn một m àn buồn bã không có sự thay vai đổi cảnh. Đó là nhịp sống quẩn quanh, tù đọng uể oải và buồn tẻ : “ Quanh quẩn mãi cũng vài ba dáng điệu. Tới hay lui cũng chừng ấy mặt ng ười” (Huy Cận). Thắp lên ngọn đèn, ít nhất chị Tí cũng tạo lên một thứ ánh sáng nơi u ám, tăm tối này. Hơn thế nữa, ngọn đèn đã thay lời nói lên một khát khao trong họ dù rất nhỏ bé: hi vọng chút ánh sáng nhỏ nhoi ấy sẽ xua đi bóng tối , mang lại cho họ một cuộc sống khác tươi đẹp hơn, đáng sống hơn (dù trong vô vọng). Đáng thương biết bao! Có ai đó đã nói rằng: “ Truyện ngắn Thạch Lam như một bài thơ trữ tình trong đó có những chi tiết giữ vai trò như nhãn tự bài thơ”. Ngọn đèn dầu nơi quán nước chị Tí lã một chi tiết như thế. Nó là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Thạch Lam, gieo v ào 13 lòng ta một nỗi xót thương vô hạn đối với những kiếp người nhỏ bé, vô danh, bị chôn vùi nơi phố huyện và hơn bảy thập kỉ qua, nó vẫn là một ám ảnh sâu sắc mãi không thôi đối với nhiều thế hệ bạn đọc. Bởi h ơn hết ngọn đèn ấy được vẽ nên bằng cả tài năng nghệ thuật và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Thạch Lam. 30.Chi tiết bát cháo hành của Thị Nở Bát cháo là thứ tiên dược trong pha cấp cứu ghê người đã cứu rỗi được linh hồn Chí Phèo. Là chiếc thang từ bi cứu vớt Chí Phèo từ đáy vực lên, là bản lề mở ra giai đoạn mới trong cuộc đời Chí Phèo, 31.Chi tiết cái bóng - Ở nhà con cũng có cha, mẹ ngồi cha cũng ngồi, mẹ đi đâu cha cũng đi theo đó. - Cha trước của con lạ về kia kìa. Dùng cái bóngđể tạo nên sự nghi ngờ ghen tuông của một người chồng thì thật tuyệt. Thâm thuý là ở chỗ cái bóng bản thân nó có đâu. Phải có một con ng ười, một ngọn đèn thì cái bóng kia nó mới có được. Vậy mà nó – cái vốn không có, lại có thể gây tai hoạ, tang tóc cho cả một gia đ ình, nếu người trong cuộc không được bình tĩnh sáng suốt và không có lòng tin ở người thân yêu của mình. 32.Chi tiết lão Hạc khóc “ Lão cố làm ra vui vẻ . Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước. Tôi hỏi cho có chuyện: - Thế nó cho bắt à? Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những nết nhăn xô lại với nhau, ép cho n ước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹ o về một bên và cái miệng của lão mếu máo như con nít. Lão khóc hu hu” Hai lần miêu tả xen vào sự việc (tả nụ cười và đôi mắt, tả cái đầu, nếp nhăn, cái miệng). Tác giả chọn được chi tiết, dùng đúng chỗ. Khi nhân vật tôi chỉ hỏi cho có chuyện, động chạm tới nỗi xót xa của l ão thì cái vui vẻ giả tạo bên ngoài biến mất, nét mặt, hành động của lão cũng thay đổi hẳn. Từ khi con trai kí giấy đi làm đồn điền cao su, lão Hạc vẫn hi vọng ngày con trở về sẽ cưới vợ cho con; và theo lão, khi ấy lão mới giết thịt con chó. Nhưng trước tình hình khốn khó, lão đã phải bán “cậu Vàng”. Việc đó cũng đồng nghĩa với việc l ão Hạc đã tự tiêu diệt hi vọng cuối cùng và lặng lẽ chuẩn bị cho cái chết bế tắc của m ình. 33. Chi tiết “ Cô tôi cười” “Gần đến ngày giỗ thầy tôi, mẹ tôi ở Thanh Hoá vẫn ch ưa về Một hôm, cô tôi gọi đến bên cười hỏi: - Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hoá chơi với mẹ mày không?”. Trong hoàn cảnh cụ thể, Hồng nhận ra cái ý nghĩa của biểu hiện không b ình thường trong thái độ “cười hỏi” của cô – Trái tim nhạy cảm cùng " tình yêu và lòng kính mến mẹ” đã giúp Hồng thông mimh lựa chọn: cúi đầu không đáp. ( Cười hỏi chứ không phải lo lắng hỏi, nghiêm nghị hỏi). Kí ức về mẹ trở thành một đối trọng với ý nghĩa cay độc trong giọng nói v à nét mặt khi cười rất kịch của cô và trở thành động lực ứng đối bật ra: “ Không ! Cháu không muốn vào. Cuối năm thế nào mẹ cháu cũng về”.
File đính kèm:
- tai_lieu_binh_giang_mot_so_diem_sang_tham_mi_tin_hieu_nghe_t.pdf