Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh học tốt môn Toán Lớp 3

Qua những năm giảng dạy lớp 3, theo tôi nghĩ, học sinh học tốt môn toán thì không thể không luyện cho học sinh học thuộc bảng nhân, chia. Bởi lẽ học sinh có thuộc bảng nhân, chia mới vận dụng giải các bài tập có liên quan. Đặc biệt là các phép chia có số bị chia 3, 4 chữ số và giải toán hợp.
Để luyện cho học sinh thuộc và khắc sâu các bảng nhân, chia tôi làm như sau:
Khi dạy tôi hướng dẫn học sinh lập được bảng nhân, chia và tôi chốt lại cho học sinh nắm sâu hơn và dễ nhớ hơn như sau:
VD: Bảng nhân.
Các thừa số thứ nhất trong bảng nhân đều bằng nhau.
Các thừa số thứ hai trong bảng nhân đều khác nhau theo thứ tự là 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10. Mỗi thừa số này liền nhau hơn kém nhau 1 đơn vị. ( trong bảng nhân các thừa số thứ hai nhỏ nhất là 1, lớn nhất là 10 không có thừa số 0).
Các tích cũng khác nhau và mỗi tích liền nhau hơn kém nhau bằng thừa số thứ nhất. (Tích thứ nhất trong bảng nhân chính là thừa số thứ nhất, tích cuối cùng trong bảng nhân gấp thừa số thứ nhất 10 lần).
VD: Bảng chia 9.
Các số bị chia trong bảng chia 9 là các tích của bảng nhân 9, và hơn kém nhau 9 đơn vị.
Số chia trong bảng chia 9 là các thừa số thứ nhất của bảng nhân 9 đều là 9.
Các thương của bảng chia 9 là thừa số thứ hai của bảng nhân 9.
Để khắc sâu kiến thức cho học sinh, tôi còn cho học sinh chơi trò chơi.
VD: Trò chơi ôn lại bảng nhân, chia ( chuyền bóng)
Cách chơi:
Giáo viên đọc một phép nhân chia trong bảng nhân chia đã học rồi tung bóng cho học sinh, các em phải bắt bóng cẩn thận và trả lời kết quả. Em đó tiếp tục đọc phép tính khác và tung bóng cho bạn khác trả lời, cứ tiếp tục như vậy cho tới khi trò chơi kết thúc.
pdf 9 trang Bạch Hải 12/06/2025 100
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh học tốt môn Toán Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh học tốt môn Toán Lớp 3

Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh học tốt môn Toán Lớp 3
 Một số giải pháp giúp học sinh học tốt môn Toán lớp 3 
 Trong thực tiển có nhiều điều khác với sách vở, có nhiều điều không sách vở nào 
nói hết. Toán học cũng vậy. Sách vở không nói hết mới cần đến vai trò của người thầy. 
Trong thực tiển sách học không lường hết những tình huống xãy ra trong quá trình dạy 
học. Bởi vậy sách dạy chúng ta phương pháp truyền thụ kiến thức. Song chúng ta cũng có 
thể giúp người viết sách hoàn thiện phương pháp giảng dạy một cách tốt hơn. Chưa nói 
đối tượng học sinh ở mỗi địa phương lại có sự khác nhau. Nhận thức của các em có sự 
chênh lệch, do đó người giáo viên tuỳ theo học sinh của lớp mình, của địa phương mình để 
có cách dạy thích hợp. 
 Trường TH Văn Hải là trường thuộc vùng nằm giữa trung tâm huyện với các xã vùng 
ven biển. Học sinh Trường TH Văn Hải có đặc điểm riêng, lớp 3 có những điểm khác biệt 
so với lớp 3 trong trường. Một số em môn toán còn yếu, phương pháp học tập chưa rõ 
ràng, còn thụ động trong việc tiếp thu bài. Song điều đáng nói, đây là vùng dân cư tập 
trung tương đối đông chủ yếu theo đạo thiên chúa giáo. Trình độ nhận thức của phụ huynh 
còn nhiều hạn chế. Hơn phân nửa số học sinh là con nhà nghèo có hoàn cảnh kinh tế khó 
khăn. Ngoài giờ học ở trường, về nhà các em còn phụ giúp gia đình để kiếm sống. Một số 
học sinh cha mẹ phải đi làm ăn xa không trực tiếp dạy dỗ, chăm sóc. Vì vậy, các em còn lo 
chơi chưa chú ý về học tập. Những bài học bài tập còn xao lãng. Như vậy trách nhiệm 
nặng nề thuộc vào người giáo viên trực tiếp đứng lớp. 
1. Giải pháp cũ thường làm 
 Chương trình sách giáo khoa lớp 3 cũ và thực hiện đổi mới chương trình sách giáo 
khoa môn Toán 3. Bản thân đã có tinh thần trách nhiệm, có ý thức về chuyên môn trong 
việc tiếp cận với phương pháp giảng dạy toán 3 mới. Tôi nhận thấy đối tượng học sinh 
không đồng đều một số học sinh trung bình, yếu, . Phần nhiều học sinh chưa nắm vững 
chắc những kiến thức cơ bản về toán như: 
 + Chưa thuộc bảng nhân, chia. 
 + Chưa nắm vững cách đọc, viết và so sánh số tự nhiên (đến hàng nghìn, chục). 
 + Chưa biết đặt tính, thực hiện phép tính ( cộng, trừ, nhân, chia cột dọc). 
 + Đặc biệt các em còn rất yếu trong việc giải toán có lời văn. 
 + Chưa thuộc các quy tắc đã học trong giải toán. 
 - Đứng trước thực trạng trên, là giáo viên chủ nhiệm lớp 3 tôi thật sự băn khoăn và đặt 
ra nhiệm vụ là làm thế nào để bồi dưỡng, hình thành cho học sinh những kiến thức cơ bản 
giúp học sinh học tốt môn toán. 
1.1. Nội dung giải pháp. 
 Năm học 2019 – 2020 tôi được phân công giảng dạy lớp 3A, tôi đã thực hiện một số 
giải pháp dạy môn Toán như: 
 1. Tìm hiểu kĩ các đối tượng học sinh trong lớp ngay từ đầu năm học. 
 2. Nắm vững mục tiêu của từng bài dạy theo đúng nội dung, chuẩn kiến thức kĩ năng; 
đảm bảo việc truyền thụ đúng, đủ và khắc sâu kiến thức cho học sinh. 
 1 3. Vận dụng đổi mới phương pháp trong quá trình dạy học theo hướng học sinh chủ 
động, tích cực; Tổ chức lớp học hợp lí; Lựa chọn các cách khai thác phù hợp với từng đối 
tượng học sinh. 
 4. Quan tâm đến đối tượng học sinh tiếp thu bài chậm trong lớp nhằm nâng cao chất 
lượng đại trà. 
 5. Đánh giá khích lệ học sinh kịp thời. 
 Qua một năm vận dụng các giải pháp nêu trên tôi thấy có những điểm đạt được và 
những tồn tại cần được khắc phục như sau: 
 - Học sinh nắm được những kiến thức cơ bản của bài học, của môn học khá chủ 
động. 
 - Các em được giải quyết hết các bài tập trong từng bài học theo nội dung chuẩn 
kiến thức kĩ năng. 
 - Nâng cao được chất lượng đại trà, học sinh tiếp thu chậm đã có sự tiến bộ. 
 - Giáo viên chủ động về mặt thời gian trong giờ dạy. 
 - Kết quả kiểm tra định kì môn Toán cuối năm học 2019 -2020 
 Lớp Sĩ số Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm dưới 5 
 SL % SL % SL % SL % 
 3A 32 8 25 11 34,37 13 40,62 
1.2 Nhược điểm của giải pháp cũ. 
 - Giáo viên cần nghiên cứu nắm vững chương trình, hệ thống kiến thức, mức độ yêu 
cầu kiến thức, kĩ năng của học sinh, nghiên cứu nắm vững sự thể hiện cụ thể của chương 
trình, sách giáo khoa, sách bài tập, sách hướng dẫn (sách giáo viên). 
 - Luôn tạo cho cho học sinh tinh thần quan tâm. 
 - Học sinh cần nắm vững các kiến thức cơ bản. 
 - Cần thường xuyên đánh giá và nhận xét sau mỗi bài để học sinh tìm ra nguyên nhân 
làm sai. Giáo viên nên có cách sửa hiệu quả với từng đối tượng học sinh. 
2. Giải pháp mới cải tiến. 
 * Mô tả bản chất các giải pháp mới. 
 Từ thực tế của lớp, tôi đã suy nghĩ tìm ra một số giải pháp để giúp học sinh dễ hiểu để 
hình thành kiến thức, kĩ năng trong môn môn toán như sau: 
 Giải pháp 1. Phân loại đối tượng học sinh và dạy học theo hướng cá thể hoá 
học sinh: 
 Ngay từ đầu năm học, tôi đã tìm hiểu kĩ các đối tượng học sinh trong lớp và phân 
thành 3 nhóm đối tượng: Nhóm học sinh năng khiếu; Nhóm học sinh trung bình và nhóm 
học sinh tiếp thu chậm. 
 Với nhóm học sinh tiếp thu bài chậm, trong mỗi giờ học, tôi đã quan tâm, giúp đỡ 
đến từng em để các em cũng đạt được những yêu cầu về chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài 
như những học sinh trung bình. 
 Riêng nhóm học sinh năng khiếu, các em dễ dàng đạt được yêu cầu trên trong 
khoảng thời gian ngắn hơn. Khi đó, tôi khích lệ các em tiếp tục tìm thêm các hướng giải 
 2 khác cho bài toán (nếu có thể) hoặc giao thêm 1 - 2 bài tập nhằm củng cố và nâng cao 
kiến thức vừa học. Qua đó, các em phát huy cao độ tính vận dụng sáng tạo khả năng của 
mình. 
 Giải pháp 2. Nâng cao hiệu quả truyền thụ kiến thức cho học sinh. 
* Luyện cho học sinh thuộc bảng nhân, chia. 
 Qua những năm giảng dạy lớp 3, theo tôi nghĩ, học sinh học tốt môn toán thì không 
thể không luyện cho học sinh học thuộc bảng nhân, chia. Bởi lẽ học sinh có thuộc bảng 
nhân, chia mới vận dụng giải các bài tập có liên quan. Đặc biệt là các phép chia có số bị 
chia 3, 4 chữ số và giải toán hợp. 
 Để luyện cho học sinh thuộc và khắc sâu các bảng nhân, chia tôi làm như sau: 
 Khi dạy tôi hướng dẫn học sinh lập được bảng nhân, chia và tôi chốt lại cho học sinh 
nắm sâu hơn và dễ nhớ hơn như sau: 
 VD: Bảng nhân. 
 Các thừa số thứ nhất trong bảng nhân đều bằng nhau. 
 Các thừa số thứ hai trong bảng nhân đều khác nhau theo thứ tự là 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 
9, 10. Mỗi thừa số này liền nhau hơn kém nhau 1 đơn vị. ( trong bảng nhân các thừa số thứ 
hai nhỏ nhất là 1, lớn nhất là 10 không có thừa số 0). 
 Các tích cũng khác nhau và mỗi tích liền nhau hơn kém nhau bằng thừa số thứ nhất. 
(Tích thứ nhất trong bảng nhân chính là thừa số thứ nhất, tích cuối cùng trong bảng nhân 
gấp thừa số thứ nhất 10 lần). 
 VD: Bảng chia 9. 
 Các số bị chia trong bảng chia 9 là các tích của bảng nhân 9, và hơn kém nhau 9 đơn 
vị. 
 Số chia trong bảng chia 9 là các thừa số thứ nhất của bảng nhân 9 đều là 9. 
 Các thương của bảng chia 9 là thừa số thứ hai của bảng nhân 9. 
 Để khắc sâu kiến thức cho học sinh, tôi còn cho học sinh chơi trò chơi. 
 VD: Trò chơi ôn lại bảng nhân, chia ( chuyền bóng) 
 Cách chơi: 
 Giáo viên đọc một phép nhân chia trong bảng nhân chia đã học rồi tung bóng cho học 
sinh, các em phải bắt bóng cẩn thận và trả lời kết quả. Em đó tiếp tục đọc phép tính khác 
và tung bóng cho bạn khác trả lời, cứ tiếp tục như vậy cho tới khi trò chơi kết thúc. 
* Hướng dẫn đọc, viết, so sánh các số tự nhiên. 
 Học sinh biết đọc, viết, so sánh các số tự nhiên là chuỗi kiến thức rất quan trọng trong 
chương trình toán 3. 
 Chuỗi kiến thức này nhằm giúp học sinh nắm được cách đọc, viết và so sánh các số tự 
nhiên vận dụng vào cộng, trừ, nhân, chia số thứ tự và giải bài toán hợp. 
 Dạy chuỗi kiến thức này theo tôi người giáo viên cần hình thành cho học sinh những 
kiến thức cơ bản sau: 
 Giúp học sinh hiểu các số tự nhiên. 
 Các số 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, . . . là các số tự nhiên. 
 Số 0 là số tự nhiên bé nhất, không có số tự nhiên lớn nhất. 
 Số 0, 2, 4, 6 . . . là các số tự nhiên chẵn, số 1, 3, 5,7, 9, 11, . . . là các số tự nhiên lẻ. 
Hai số chẵn ( hoặc lẻ) liên tiếp hơn kém nhau 2 đơn vị. 
 3 Nắm được tên và vị trí của các hàng ( hàng đơn vị, hàng chục, hàng trăm, hàng 
nghìn). 
 Biết qui tắc các giá trị theo vị trí của các chữ số trong cách viết số. 
 VD: Dạy cho học sinh: 
 Các số có bốn chữ số gồm hàng nghìn, hàng trăm, hàng chục, hàng đơn vị. Tôi giải 
thích cho học sinh là: hàng nghìn các chữ số lớn hơn 0. 
 VD: 1234; 2574; 4351; . . . . hàng nghìn là: 1, 2, 4 nghìn. Không thể có hàng nghìn là 
0 như: 0234, 0574, 0351, . . . . Vậy số có bốn chữ số có hàng nghìn nhỏ nhất là 1, lớn nhất 
là 9. 
* Hướng dẫn đọc, viết. 
 Hướng dẫn phân hàng: VD số: 5921. 
 Hàng nghìn, hàng trăm, hàng chục, hàng đơn vị. 
 Số 5921: Có 5 nghìn, 9 trăm, 2 chục, 1 đơn vị. 
 Đọc số 5921: Năm nghìn, chín trăm hai mươi mốt. 
 Giáo viên viết: 5921. 
 Phân tích: 5 9 2 1 
 5nghìn 9trăm 2chục 1đơn vị. 
 Hoặc: lớp nghìn lớp đơn vị. 
 Khi viết, ta viết từ hàng cao đến hàng thấp (viết từ trái sang phải). 
 Khi đọc lớp nào ta kèm theo đơn vị lớp đó. 
 Học sinh đọc: Năm nghìn, chín trăm hai mươi mốt. 
 Hơn thế nữa, tôi còn hướng dẫn thêm cho học sinh cách đọc như sau: 
 VD: Số 5921 và 5911. 
 Số 5921 đọc là: Năm nghìn, chín trăm hai mươi mốt. 
 Số 5911 đọc là: Năm nghìn, chín trăm mười một. 
 Nói cụ thể hơn, từ hai số trên cho học sinh nhận ra được cách đọc ở cùng hàng đơn vị 
của hai số là khác nhau chỗ mốt và một. Nghĩa là số 5921, hàng đơn vị đọc là mốt, còn số 
5911 hàng đơn vị đọc là một. Tuy cùng hàng và đều là số “1” nhưng tên gọi lại khác nhau. 
Tôi còn phát hiện và giúp học sinh đọc và nhận ra cách đọc của một vài số lại có cách đọc 
tương tự trên: 
 VD: Số 2305 và 2325 cùng hàng đơn vị là số “5” nhưng lại đọc là “năm” và “lăm”. 
 VD: Số 2010: Học sinh nhiều em đọc là “Hai nghìn không trăm linh mười”. Tôi 
hướng dẫn các em. Trong số tự nhiên chỉ được đọc “linh một, linh hai, . . . .linh chín, 
không có đọc là linh mười” vậy số 2010 đọc là: Hai nghìn không trăm mười. 
* Hướng dẫn so sánh. 
 - Trong qui tắc là: Khi ta so sánh trong hai số thì: Số nào có ít chữ số hơn thì số đó bé 
hơn và ngược lại. VD: 9999 999. 
 - Còn các số có cùng chữ số thì sao? Ngoài việc làm theo qui tắc thì tôi còn làm như 
sau: 
 So sánh từng hàng tương ứng trong hai số, từ hàng lớn nhất lần lượt tới hàng đơn vị. 
 4 VD: so sánh hai số 9780 và 9681. Hai số này đều là số có bốn chữ số vì vậy ta sẽ so 
sánh như sau: Hàng nghìn đều là 9 = 9, ta tiếp tục so sánh hàng trăm nếu số nào có hàng 
trăm lớn hơn thì số đó lớn hơn, 7 > 6 vì vậy 9780 > 9681 
* Hướng dẫn cách đặt tính, thực hiện phép tính ( cộng, trừ, nhân, chia cột dọc) 
 Theo tôi, đặt tính cũng là một việc hết sức quan trọng trong quá trình làm tính. Nếu 
học sinh không biết cách đặt tính hoặc tính sai sẽ dẫn đến kết quả sai. Vì thế theo tôi nghĩ, 
để học sinh có căn bản khi thực hiện phép tính phải nắm vững cách đặt tính khi tính cộng 
trừ, nhân chia. 
 Đối với phép cộng, trừ: ( giúp học sinh nhớ và áp dụng) 
 Cần hướng dẫn học sinh kĩ là phải đặt tính thẳng hàng (hàng đơn vị theo hàng đơn vị, 
hàng chục theo hàng chục, hàng trăm theo hàng trăm, hàng nghìn theo hàng nghìn). 
Hướng dẫn học sinh bắt đầu cộng từ hàng đơn vị (hoặc từ phải sang trái). Nên lưu ý học 
sinh đối với phép trừ có nhớ, cần bớt ra khi trừ hàng kế tiếp. 
 GV nói: Khi kẻ lần vạch ngang, tất cả các em đều dùng bằng thước. 
 Nhắc học sinh chú ý: Trong phép cộng, trừ chỉ nhớ số 1, không nhớ 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 
9. 
 Đối với phép nhân, chia: (giúp học sinh nhớ và áp dụng). 
 Phép nhân 
 Khi đặt tính giáo viên lưu ý cho học: Viết thừa số thứ nhất ở 1 dòng, viết thừa số thứ 
hai ở dòng dưới sao cho thẳng cột với hàng đơn vị (nhân số có 2, 3, 4 chữ số với số có 1 
chữ số). Viết dấu nhân ở giữa hai dòng thừa số thứ nhất và thừa số thứ hai và lùi ra khoảng 
1,2 mm, rồi kẻ vạch ngang bằng thước kẻ. 
 Khi thực hiện phép nhân này, ta phải thực hiện tính bắt đầu từ hàng đơn vị, sau đó 
đến hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn (hoặc tính từ phải sang trái). Các chữ số ở tích nên 
viết sao cho thẳng cột với theo từng hàng, bắt đầu từ hàng đơn vị, chục, trăm, nghìn của 
thừa số thứ nhất. 
 Đối với cách viết từng chữ số của tích có nhớ, ta nên viết số đơn vị, nhớ số chục. 
(hoặc nhắc học sinh viết số bên tay phải nhớ số bên tay trái). 
 Phép chia 
 Tôi nghĩ thực hiện đặt tính và tính cộng, trừ, nhân, chia theo cột dọc, thì phép chia là 
khó nhất vì: 
 Học sinh hay quên, thực hiện chưa đầy đủ các hàng cao đến hàng thấp (có em chỉ 
mới thực hiện đến hàng trăm, chục mà không thực hiện hết). Cần hướng dẫn kĩ cho học 
sinh cách nhân ngược lên và trừ lại, . . . Đặc biệt đối với học sinh yếu toán, tôi hướng dẫn 
kĩ cách đặt tính, nhằm giúp các em thấy được hàng nào thực hiện rồi, hàng nào chưa thực 
hiện. Thực hiện như sau: 
Khi hạ hàng nào phải hạ dưới sao cho thẳng hàng, để ta biết sẽ thực hiện hàng đó, sau đó 
mới thực hiện hàng kế tiếp. 
 Nhắc học sinh: 
 Thầy nói trong các phép tính cộng, trừ, nhân, chia theo cột dọc thì các phép cộng, 
trừ, nhân ta thực hiện tính theo thứ tự từ phải sang trái, hoặc từ hàng đơn vị, hàng chục, . . 
. Còn riêng phép chia ta tính theo thứ tụ từ trái sang phải, hoặc từ hàng cao nhất đến hàng 
thấp nhất ( hàng nghìn, trăm, chục, đơn vị). 
* Hướng dẫn giải toán có lời văn. 
 5 Đây là chuỗi kiến thức học sinh mất căn bản. Các em thường chưa biết phân tích đề 
toán, chưa biết suy luận, tổng hợp, so sánh tìm cách giải hợp lí cho từng bài. Vì vậy, trong 
mỗi tiết học gặp những bài toán giải có lời văn tôi yêu cầu học sinh như sau: 
 Phần đọc thành tiếng và đọc thầm. 
 Đọc kĩ đề toán, gạch chân từ, số quan trọng liên quan đến khâu giải. (GV theo dõi cả 
lớp đọc thầm và yêu cầu em nào cũng phải đọc, có đọc mới hiểu và làm bài đựơc). 
 Khi đọc cần hiểu bài toán cho ta biết điều gi? Bài toán hỏi gi? 
 Phần hướng dẫn giải. 
 Hướng dẫn tóm tắt đề toán bằng hình vẽ, lời câu văn, . . . 
 Tìm hướng giải: Phân tích hoặc tổng hợp. 
 Gợi mở khâu đặt lời giải rõ ràng, gọn, đúng yêu cầu bài toán. 
 VD: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị. 
 Có 35l mật ong đựng đều vào 7 can. Nếu có 10l mật ong thì đựng đều vào mấy can 
như thế? 
 Bước 1: Gọi học sinh đọc kĩ đề: 2 em đọc to, cả lớp đọc thầm. (chú ý nội dung) 
 Bước 2: Hướng dẫn phân tích để xác định cái đã cho và cái cần tìm, sau đó giáo viên 
gạch chân. 
 Hỏi: Cái đã cho: 35l mật ong, 7 can 
 Cái cần tìm: Có 10l mật ong đựng trong bao nhiêu can. 
 Giáo viên hướng dẫn tóm tắt bài toán. 
 35 lít mật ong: 7 can 
 10 lít mật ong: . . . can? 
 Bước 3: Tìm hướng giải: 
 Bài toán hỏi gì? (có 10l mật ong thì đựng trong bao nhiêu can?) 
 Muốn biết 10l mật ong đựng đều mấy can, ta phải làm gì? (tìm xem 1 can đựng được 
bao nhiêu lít mật ong). 
 Muốn tìm được 1 can đựng bao nhiêu lít mật ong ta làm sao? 
 Gợi mở cho học sinh đặt lời giải và chọn phép tính giải. 
Số lít mật ong đựng trong 1can là: 
35 : 7 = 5 ( l ) 
 Hỏi tiếp: 
 Biết được mỗi can 5l mật ong. Vậy nếu có 10l mật ong thì đựng đều mấy can như thế? 
 Gợi mở để cho học sinh chọn lời giải và phép tính. 
Số can đựng 10l mật ong là: 
10 : 5 = 2 (can) 
Đáp số: 2 can. 
 Song song với qui trình hướng dẫn giải, tôi luôn lưu ý học sinh cách trình bày bài giải 
sao cho phù hợp với trình tự yêu cầu của đề, cụ thể như bài toán vừa hướng dẫn trên, tôi 
hướng dẫn các em trình bày như sau: 
Bài giải 
 Số lít mật ong đựng trong mỗi can là: 
 35 : 7 = 5 (l) 
 Số can đựng 10l mật ong là: 
 10 : 5 = 2 (can) 
 6 Đáp số: 2 can. 
* Giúp học sinh nắm, thuộc các qui tắc đã học. 
 Tuy nhiên học sinh đã biết cộng, trừ, nhân, chia, . . . cũng chưa giải hết được các bài 
toán trong chương trình sách giáo khoa toán lớp 3. Vì thế tôi cần giúp cho các em thuộc và 
khắc sâu các qui tắc đã học để áp dụng và làm toán tốt hơn, tôi làm như sau: 
 Tôi soạn lại các qui tắc đã học và có ví dụ , rồi in trên giấy A4, phát cho học sinh và 
yêu cầu các em phải học thuộc. 
Giải pháp 3. Sự quan tâm, động viên, khích lệ của các cá nhân và tổ chức xã hội. 
 - Duy trì việc thi “ Giải toán qua mạng” hằng năm cho học sinh. 
 - Nhà trường, gia đình, thầy cô luôn biết khích lệ biểu dương các em kịp thời. Hãy 
khen ngợi những em hoàn thành tốt môn Toán để các em thấy giá trị của mình được nâng 
cao, có niềm tin và hứng thú học tập hơn. 
 - Luôn thể hiện cho học sinh thấy tình cảm yêu thương của một người thầy đối với 
học sinh, lòng nhân ái, bao dung, đức vị tha của người thầy luôn có một sức mạnh to lớn 
để giáo dục và cảm hóa học sinh. 
 - Phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh; kiên trì vận động cha mẹ tích cực tham gia 
vào việc học tập của con em. 
 - Giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian nghiên cứu, phải thường xuyên đổi mới, sử 
dụng tốt các phương pháp dạy thông qua từng tiết dạy cụ thể sao cho phù hợp với học 
sinh, kiên trì bền bỉ từng bước thì chắc chắn sẽ gặt hái được thành quả tốt đẹp. 
 * Tính mới của giải pháp. 
 - Tôi nghĩ rằng đây là sáng kiến mang cả tính mới về nội dung và hình thức. Bởi vì 
việc tìm ra "Một số giải pháp giúp học sinh học tốt môn Toán lớp 3" là cần thiết trong nhà 
trường. Các giải pháp đã nêu lên các cách hình thành kiến thức, kĩ năng cho học sinh một 
cách dễ hiểu, dễ làm, đạt hiệu quả và chủ động trong quá trình học từ đó giúp các giáo 
viên dạy học môn Toán tốt hơn. 
 - Phân hóa học sinh để có phương pháp giảng giạy phù hợp. 
 - Gần gũi, quan tâm và xây dựng mối quan hệ thầy – trò để học thoải mái phát huy 
tính tích cực trong tiết học. 
 - Khích lệ, quan tâm học sinh giải toán qua mạng để nâng cao kĩ năng giải toán. 
 - Sáng tạo trong khích lệ học sinh theo thông tư 22/2016. 
3. Hiệu quả kinh tế, xã hội dự kiến đạt được 
 * Hiệu quả kinh tế: 
 Khi áp dụng các biện pháp này học sinh và giáo viên không phải tốn kém nhiều về 
kinh phí vì chất lượng trang thiết bị khi dạy toán, còn giáo viên chỉ cần đầu tư thời gian 
hợp lí cho việc nghiên cứu và áp dụng nội dung kiến thức vào tiết dạy có hiệu quả chất 
lượng môn Toán được nâng cao rõ rệt. 
 Công tác giảng dạy ở trên lớp không thể tính được bằng tiền trong một thời gian 
ngắn. Nhưng chắc chắn nếu làm tốt trong tương lai hiệu quả kinh tế vô cùng to lớn. Tôi 
có thể khẳng định chắc chắn con người có thể làm ra kinh tế còn kinh tế không thể làm 
ra con người. Những con người có đức, có tài, có tâm, có tầm là những sản phẩm vô giá 
mà công tác giáo dục mang lại. Vì vậy trang bị các kiến thức toán học được coi trọng và 
 7 được đánh giá cao, bởi nó là hành trang bước vào học các lớp lớn hơn và tạo nên những 
chủ nhân tương lai của đất nước. 
 * Hiệu quả xã hội: 
 Qua thời gian thực nghiệm, kết quả đạt được của học sinh lớp tôi về môn toán là 
đáng khả quan: 
 - Các em nắm được các kiến thức cơ bản của bài học, của môn học một cách chủ 
động, tích cực. 
 - Các em tự tin hơn về kiến thức toán học của mình để vận dụng làm các bài tập. 
 - So với năm học trước, kết quả môn Toán của học sinh cao hơn: kết quả kiểm tra định 
kì môn Toán cuối năm học 2020 -2021 
 Lớp Sĩ số Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm dưới 5 
 SL % SL % SL % SL % 
 3A 32 12 37,5 12 37,5 8 25 
4. Điều kiện và khả năng áp dụng. 
 * Điều kiện áp dụng: 
 Sau khi rút ra những "Một số giải pháp giúp học sinh học tốt môn Toán lớp 3" . Từ 
việc áp dụng vào thực tiễn lớp 3A do tôi chủ nhiệm, tôi nhận thấy mọi giáo viên đều có 
thể áp dụng những giải pháp này để nâng cao sự tiếp thu bài cho học sinh. Việc áp dụng 
giải pháp không khó, có điều yêu cầu người giáo viên cần có lòng kiên trì, tâm huyết với 
công việc, không ngại khó, ngại khổ để nâng cao chất lượng môn Toán cho học sinh như 
lớp 3A năm học này đã áp dụng. 
 Khi thực hiện việc nâng cao chất lượng môn Toán lớp 3 yêu cầu: 
 + Về cơ sở vật chất: 
 - Không gian lớp học rộng rãi, có đủ ánh sáng, bàn ghế đạt tiêu chuẩn. 
 - Đủ đồ dùng dạy học cho tiết học. 
 - Giáo viên, học sinh chuẩn bị đầy đủ đồ học tập. 
 + Về giáo viên thực hiện dạy: 
 - Giáo viên chuẩn bị bài dạy phải đầu tư nhiều thời gian, sẵn sàng hợp tác. 
 - Giáo viên cần quan sát đến thái độ, hành động, sai sót của học sinh để kịp thời sửa 
chữa. 
 - Giáo viên luôn có ý thức rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư 
phạm. 
 * Khả năng áp dụng. 
 Tôi thiết nghĩ việc thực hiện các giải pháp trong sáng kiến của tôi có thể áp dụng cho 
tất cả mọi giáo viên khối lớp 3 ở Tiểu học, ở các vùng miền khác nhau trên đất nước. Để 
có những mầm non thực sự là chủ nhân tương lai của đất nước cần có những người thầy 
thực sự tâm huyết và có trách nhiệm với nghề, song bên cạnh đó rất cần có sự chỉ đạo sát 
sao của Phòng giáo dục, của Ban giám hiệu nhà trường và sự quan tâm của các bậc phụ 
huynh. 
 8 Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong việc nghiên cứu, áp dụng "Một số giải 
pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 3". Rất mong nhận được sự đánh giá của đồng 
nghiệp để sao cho chất lượng học sinh ngày càng nâng cao, đáp ứng được yêu cầu của 
ngành và chất lượng đào tạo trong trường Tiểu học./. 
 Văn Hải, ngày tháng 4 năm 2021 
 Nguyễn Thị Thu Hà 
 9 

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_giup_hoc_sinh_hoc_tot.pdf