Sáng kiến kinh nghiệm Câu lạc bộ STEM văn học “Chúng em yêu thích thơ ca Việt Nam”
Lí do thực hiện:
STEM là tên gọi tắt của khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học. Là hình thức dạy – học theo mô hình tích hợp và ứng dụng để tạo ra những sản phẩm bổ ích, thiết thực và lí thú. Stem Văn học là một lĩnh vực mới mẻ và khó so với các môn học khác, tuy nhiên nếu giaó viên dụng công tìm tòi, tích cực đổi mới, bỏ nếp nghĩ và thói quen dạy học truyền thống sẽ tạo được những hoạt động STEM Văn học lí thú, hấp dẫn và lôi cuốn người học. Sở dĩ có thể tạo được STEM Văn học bởi vì đặc trưng của Văn học là một bộ môn khoa học xã hội, là bộ môn khoa học về con người. Nó có thể tạo ra nhiều tích hợp liên môn và sản phẩm kĩ thuật khoa học, công nghệ từ việc giải mã những đặc điểm của ngôn ngữ văn chương, mang lại sự trải nghiệm sáng tạo cho người học.
Từ xưa đến nay, con người đều khẳng định ngôn ngữ chính là thứ ma thuật lớn nhất, có khả năng tác động và làm biến đổi về chất đối với sự vật xung quanh, đồng thời nó mở rộng biên giới của mỗi con người về tâm hồn, trí tuệ. Qua nhiều công trình nghiên cứu cho thấy ngôn ngữ có thể tác động đến tất cả vật chất và sự sống xung quanh ta. Thí nghiệm về lời nói làm cho nước nở hoa đơn giản là hàng ngày ta nói với bình nước những lời nhẹ nhàng, yêu thương, tích cực và ngọt ngào, thứ ngôn từ yêu thương ấy sẽ làm cho những phân tử nước kết thành những bông hoa đẹp. Ngược lại, nếu ngày ngày ta mắng nhiếc, chửi rủa, nói những lời thô tục thì nó sẽ kết thành những phần tử dị dạng, đáng sợ. Hay hiện tượng nấm mốc và nấm có lợi mọc trên bát cơm hoàn toàn trái ngược nhau khi ta có những hành vi ngôn ngữ khác nhau. Sức mạnh của ngôn ngữ lớn mạnh như vậy là do chức năng chân, thiện, mĩ của văn học. Sau đây là một số tài liệu được trích dẫn từ nguồn intenet để minh họa.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Câu lạc bộ STEM văn học “Chúng em yêu thích thơ ca Việt Nam”
BÁO CÁO MÔ TẢ SÁNG KIẾN DỰ THI GIÁO VIÊN GIỎI CẤP HUYỆN I.TÊN SÁNG KIẾN: CÂU LẠC BỘ STEM VĂN HỌC “ CHÚNG EM YÊU THÍCH THƠ CA VIỆT NAM” (Số tiết thực hiện: 05 buổi ngoài giờ lên lớp - Lớp: 7A) II. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN Sáng kiến được áp dụng trong giảng dạy Ngữ văn hoạt động ngoại khóa Thông tin chung về tác giả: Họ và tên: Nguyễn Thị Phương Ngày, tháng, năm sinh: 20 tháng 06 năm 1970 Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Văn Địa chỉ nơi làm việc: Trường TH và THCS Lê Quý Đôn, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Điện thoại DĐ: 0981.998.631, Email: nguyen phuonglqd70@gmail.com Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100% Đơn vị áp dụng sáng kiến: Trường TH và THCS Lê Quý Đôn Địa chỉ: Xã Độc Lập huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, ĐT: 0936552840. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Tháng 12 năm 2020 Lời cam đoan của người tham gia dự thi: Tôi xin cam đoan những giải pháp mà tôi đăng kí dự thi tại hội thi là của cá nhân tôi nghiên cứu và đã được thực nghiệm thành công, đã đăng trên youtube: Đường linh https://www.youtube.com/watch?v=ts0Mxx_rZWQ&t=1784s III. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN Lí do thực hiện: STEM là tên gọi tắt của khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học. Là hình thức dạy – học theo mô hình tích hợp và ứng dụng để tạo ra những sản phẩm bổ ích, thiết thực và lí thú. Stem Văn học là một lĩnh vực mới mẻ và khó so với các môn học khác, tuy nhiên nếu giaó viên dụng công tìm tòi, tích cực đổi mới, bỏ nếp nghĩ và thói quen dạy học truyền thống sẽ tạo được những hoạt động STEM Văn học lí thú, hấp dẫn và lôi cuốn người học. Sở dĩ có thể tạo được STEM Văn học bởi vì đặc trưng của Văn học là một bộ môn khoa học xã hội, là bộ môn khoa học về con người. Nó có thể tạo ra nhiều tích hợp liên môn và sản phẩm kĩ thuật khoa học, công nghệ từ việc giải mã những đặc điểm của ngôn ngữ văn chương, mang lại sự trải nghiệm sáng tạo cho người học. Từ xưa đến nay, con người đều khẳng định ngôn ngữ chính là thứ ma thuật lớn nhất, có khả năng tác động và làm biến đổi về chất đối với sự vật xung quanh, đồng thời nó mở rộng biên giới của mỗi con người về tâm hồn, trí tuệ. Qua nhiều công trình nghiên cứu cho thấy ngôn ngữ có thể tác động đến tất cả vật chất và sự sống xung quanh ta. Thí nghiệm về lời nói làm cho nước nở hoa đơn giản là hàng ngày ta nói với bình nước những lời nhẹ nhàng, yêu thương, tích cực và ngọt ngào, thứ ngôn từ yêu thương ấy sẽ làm cho những phân tử nước kết thành những bông hoa đẹp. Ngược lại, nếu ngày ngày ta mắng nhiếc, chửi rủa, nói những lời thô tục thì nó sẽ kết thành những phần tử dị dạng, đáng sợ. Hay hiện tượng nấm mốc và nấm có lợi mọc trên bát cơm hoàn toàn trái ngược nhau khi ta có những hành vi ngôn ngữ khác nhau. Sức mạnh của ngôn ngữ lớn mạnh như vậy là do chức năng chân, thiện, mĩ của văn học. Sau đây là một số tài liệu được trích dẫn từ nguồn intenet để minh họa. Có rất nhiều người khác nhau đã thử thí nghiệm cơm như thế và các kết quả của họ đều khá thú vị. Kết quả thu được sau hơn 1 tháng, trong thí nghiệm cơm do Tiến sỹ Masaru Emoto tiến hành Thí nghiệm cơm này đã được rất nhiều gia đình và nhà giáo trên khắp thế giới thực hiện, với kết quả y hệt như nhau.( tài liệu nguồn intennet)* Những thông điệp tốt đẹp, biết ơn và thánh thiện sẽ tương ứng với tinh thể nước tươi đẹp, cân đối và trong sáng. Trong khi những thông điệp của lòng căm hờn, nỗi đau và sự lo lắng sẽ tương ứng với những tinh thể nước xấu xí, vỡ nát, đen tối Những suy nghĩ khác nhau sẽ đem lại những mẫu nước kết tinh khác nhau. Tinh thể nước được nhận thông điệp “Tình yêu và Cảm ơn” Tinh thể nước nhận thông điệp “Đồ ngu” Tinh thể nước bị nhận thông điệp “Mày làm tao phát ốm, tao sẽ giết mày” Kết quả cùng một nước nhưng cho nghe các loại nhạc khác nhau. Nhạc rock nặng làm tinh thể nước trông thật ghê sợ. Dùng tư tưởng để xử lý ô nhiễm nước Có những nhóm người đã thử sử dụng ý nghĩ để xử lý ô nhiễm nước. Hàng trăm người đã thể hiện ý nghĩ tốt đẹp trước một cái hồ bị ô nhiễm. Một vài ngày sau, những đám tảo mục nát trong hồ đã biến mất và nước hồ đã trở nên sạch hơn, và điều này kéo dài được 6 tháng. Những thí nghiệm này có thể gợi ý cho chúng ta thấy lý do tại sao ngày nay có nhiều thảm họa thiên nhiên đến như vậy. Trên thế giới có 7 tỷ người. Nếu tư tưởng của 1 tỷ người là xấu xa thì không chỉ hành vi của họ tàn phá thế giới mà ngay cả những suy nghĩ của họ cũng gây thảm họa cho thế giới. Bởi vì, ý nghĩ của chúng ta có thể thay đổi môi trường và thực tại, do đó khi chúng ta có những suy nghĩ tốt đẹp, nói chuyện ân cần, làm những việc tốt và sống tốt, ví dụ như hàng triệu người cùng cầu nguyện bằng những tư tưởng chính trực và nhân từ, thì chúng ta có thể thay đổi cả thế giới này. Xin hãy nhìn xem những hình ảnh sau đây: Nước máy lấy tại Higashi Nihonbashi trước khi nhận được nguyện cầu Nước máy từ chính chỗ đó nhưng sau khi nhận được thông điệp tốt lành trong 10 ngày Hình ảnh này được chụp 3 ngày sau khi tai nạn hạt nhân xảy ra ở Tokaimura, Nhật Bản vào tháng 9/1999. Tinh thể của nước được lấy từ một cái giếng, cách hiện trường vụ tai nạn hạt nhân khoảng 400 mét. Chúng ta có thể thấy tác động rõ ràng của phóng xạ ở đây Hình ảnh của tinh thể nước cũng tại giếng đó, sau khi những thông điệp yêu thương và cảm thông được gửi tới nơi này Tinh thể nước lấy từ đập Fujiwara trước khi được nguyện cầu. Nước ở đây ô nhiễm nặng. Tinh thể nước lấy từ đập Fujiwara sau khi được nguyện cầu Tinh thể nước được lấy từ Kobe Nhật Bản ngay sau khi trận đại động đất Hanshin-Awaji xảy ra. Tinh thể nước cùng nơi đó 3 tháng sau, khi khu vực này được quan tâm chia sẻ từ những người lương thiện khắp thế giới. Nước máy tại Tokyo Nước máy tại Tokyo sau khi nhận được những tư tưởng tốt lành do một nhóm 500 người phát đến Như vậy qua các thí nghiệm trên cho ta thấy lời nói chứa một năng lượng khổng lồ mà những người dạy Văn cần biết đến để khai thác, nghiên cứu và ứng dụng trong quá trình tác động đến tư tưởng, nhân cách, đạo đức học sinh. Chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào khả năng cảm hóa của văn chương tới ý thức, hành vi và hệ thần kinh của con người. Nếu biết khai thác khả năng này đúng hướng ta có thể tạo nên những nhân cách con người tốt đẹp cho xã hội, giảm sự biến thái về nhân cách. Bởi chúng ta cũng biết trong lịch sử dân tộc và cuộc sống hàng ngày có những câu nói, bài thơ, tiếng hátcó sức mạnh hơn cả ngàn cân, thay đổi cả một cuộc đời hay một dân tộc. Ngôn ngữ tác động đến tâm sinh lí, hệ thần kinh và hành vi con người một cách toàn diện vì vậy ta cần nghiêm túc nghiên cứu một cách cụ thể để tạo ra một môi trường ngôn ngữ nhân văn, thân thiện, lịch sự, văn minh đáp ứng được sự phát triển tâm lí tuổi học đường. Rất nhiều thí nghiệm khoa học đã chỉ ra rằng tư tưởng, lời nói, hành động của chúng ta có thể làm biến đổi thế giới vật chất và thế giới tinh thần của con người. Thí nghiệm về hai hũ cơm như nhau được bỏ vào hai chiếc hũ giống nhau nhưng sự biến đổi trong phản ứng của các hũ cơm khác nhau rất xa khi nó được đón nhận những thông điệp khác nhau của con người. 3.1. TÌNH TRẠNG ĐÃ BIẾT Stem đã được áp dụng rộng rãi trong các môn dạy khoa học tự nhiên như toán, sinh, hóa, công nghệ...Văn học ứng dụng khoa học công nghệ Stem đã có như áp dụng lý thuyết ba phân môn: Tiếng Việt, Văn, Tập làm văn để tạo lập văn bản trong các bài kiểm tra giữa kì, cuối kì, hết kì, học sinh giỏi...Mặt khác nó là nhân tố chính để tạo dựng các loại hình kịch bản, sân khấu, văn hóa văn nghệ, phim ảnh nghệ thuật. Tuy nhiên sản phẩm của nó là ngôn ngữ chứ không phải là sản xuất ra máy móc hay các sản phẩm trực quan. Bởi vậy một số người quan niệm là văn học không có Stem vì thiếu đi 4 yếu tố cần và đủ: khoa học công nghệ kĩ thuật và toán học. Cũng vì quan điểm đó nên một bộ phận giáo viên né tránh đến thuật ngữ Stem văn học. Hiện trạng của giải pháp trước khi áp dụng giải pháp mới là người dạy và người học tuân thủ theo chương trình và các nội dung biên soạn có sẵn trong sách giáo khoa và các sách hướng dẫn, các tài liệu tham khảo. Đây là một giải pháp quen thuộc đối với người dạy. Người học áp dụng lý thuyết tập làm văn sách giáo khoa để làm bài văn tạo lập văn bản. b. Đánh giá ưu, nhược điểm của giải pháp cũ Ưu điểm: Giải pháp đã quen thuộc đối với giáo viên. Nhược điểm: Người học chưa được trang bị về lý thuyết tổng quan logic, thiếu lí luận chung nên khi làm bài còn lúng túng khó khăn. Trong lịch sử vấn đề đã tích hợp giữa các phân môn và liên môn nhưng chưa có hướng dẫn tích hợp cụ thể trong các tiết học lý thuyết tập làm văn. Chương trình Ngữ văn thường cố định, ít có tính mở, việc phản ánh hiện thực cuộc sống còn chậm chưa thích ứng kịp thời. Người học chưa được thực hành vận dụng từng đơn vị lý thuyết nên thụ động. Trong quá trình làm bài thường phải áp dụng các bài văn mẫu dẫn đến thủ tiêu sự sáng tạo, máy móc, khuôn sáo trong cách làm và tư duy. Kĩ năng rỗng, do quen viết theo mẫu, sao chép, đạo văn. Lý thuyết không đi đôi với thực hành, văn chương không gắn liền với thực tế cuộc sống, làm giảm vai trò và vị thế của văn chương nói riêng và mất dần cái hay cái đẹp của Tiếng Việt. 3,2 MÔ TẢ GIẢI PHÁP KĨ THUẬT THỰC HIỆN Giải pháp mới nhằm khắc phục những nhược điểm trên, cải tiến những phương pháp và cách làm mới, tạo tư duy cho người học đồng thời phát huy sự sáng tạo tích cực của người học, gắn liền lý thuyết với thực hành. a. Thuyết minh về điểm mới, sáng tạo của giải pháp Mục đích của giải pháp: Mục đích là đưa ra những giải pháp, những kĩ thuật, mô hình trải nghiệm trong Dạy – học văn theo hướng mới. Theo hướng tích hợp và kết nối trong làm văn và môn Ngữ văn trong nhà trường với cuộc sống. Nhằm cải thiện tình hình thực tế của môn Ngữ văn hiện nay, trả lại vị thế cho văn chương nghệ thuật trong và ngoài nhà trường, xứng đáng là kiến trúc thượng tầng xã hội. Chấm dứt xu hướng làm văn theo văn mẫu trong các sách tham khảo hoặc theo mẫu của thầy cô đã cho. Chấm dứt tình trạng học vẹt bài văn để chép lại khi làm bài hoặc đi thi. Chấm dứt thái độ học chống đối, bệnh chuộng thành tích trong giáo dục. T ... ủa tác giả đó được học trong chương trình Ngữ văn lớp 7. - Kiểm tra lại thông tin tác giả, tác phẩm bằng cách lật mặt giấy trên các ô thẻ - Tra cứu thông tin về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đó bằng cách rút các thẻ phía trên vòng tròn đã được sắp xếp thành 2 lớp (màu xanh nhạt trên đầu thẻ là thẻ nội dung, thẻ xanh đậm là thẻ nghệ thuật) Nhóm 2: Cẩm nang hình chữ nhật - Chọn ngẫu nhiên 1 thẻ gỗ trong hộp thẻ hoặc trong bao bì tem thư, trên thẻ/ bao bì có ghi 1 câu hỏi. - Tra mã thẻ trên hộp cẩm nang để biết tên tác giả cần tìm. - Người sử dụng phải đọc được bài ca dao cần tìm – phát biểu cảm nghĩ của mình. - Tra cứu thông tin về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đó bằng cách rút các thẻ phía mặt sau của hộp cẩm nang. Bước 2: Cả lớp thảo luận về mức độ đạt được tiêu chí của các nhóm, về ưu điểm, nhược điểm của các sản phẩm. Bước 3: Cả lớp thảo luận về cách khắc phục các nhược điểm của các sản phẩm. Bước 4: Giáo viên xác nhận các góp ý thảo luận của học sinh Nhóm 4: Tạo hình ảnh Cổ Nguyệt Đường và thư viện mini về Hồ Xuân Hương. Tiêu chí Điểm tối đa Điểm đạt được Kích thước phù hợp 1đ Độ bền sử dụng 1đ Tính thẩm mĩ 1đ Tính ngẫu nhiên 2đ Tính khoa học 2đ Tính chính xác 2đ Tính thực tiễn 1đ PHỤ LỤC 1.Chủ nhiệm câu lạc bộ: - Hoàng Yến Lâm - Nguyễn Ngọc Hà - Nguyễn Bảo Ngọc 2.Phân công nhiệm vụ nhóm STT Họ và tên Vai trò Nhiệm vụ 1 Nguyễn Thị Phương Anh – TN Phạm Lê Thu Hiền TK Trưởng nhóm 1 Thư kí: Chịu trách nhiệm chung về việc tổ chức nhóm thiết kế sản phẩm. Thuyết trình sản phẩm 2 NguyễnTrần Bảo Anh – TN. Nguyễn Ngọc Hà Tk Trưởng nhóm 2 Thư kí Ghi chép nhật kí hoạt động nhóm, các biên bản thảo luận nhóm, các ý kiến đóng góp hoàn thiện sản phẩm 3 Bùi Thu Uyên- TN Nguyễn Thu Hà Tk Trưởng nhóm 3 Thư kí Tìm hiểu, biên soạn nội dung các thẻ thông tin 4 Nguyễn Bảo Ngọc- TN Nguyễn Thị Thùy Trang Trưởng nhóm 4 Thư kí Trang trí khung sản phẩm, ghi nội dung thông tin lên thẻ tra cứu MC Yến Lâm Lớp trưởng Giới thiệu chương trình. Ghi hình, dựng phim về quá trình thực hiện sản phẩm của nhóm 2. Dự trù kinh phí STT Nội dung Số lượng Đơn giá Thành tiền 1 Giấy A0 8 tờ 5.000 đ/tờ 40.000đ 2 Bút dạ và màu 4 cái 5.000đ/cái 20.000đ 3 Giấy màu 5 xấp 10.000đ/tờ 50.000đ 5 Băng keo 3 cuộn 10.000đ/cuộn 30.000đ Phần thưởng Một giải nhất Một giải nhì 02 giải ba 50.000đ 40.000đ 20.000đ/ một giải 130.000 đ Thuê trang phục cho 03 kịch bản 300.000 đ 300.000 đồng Tổng tiền: 570.000đ VII. MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG THỰC NGHIỆM BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ TỔ CHỨC - Sản phẩm sử dụng vật liệu giấy khó bảo quản, có thể thay bằng vật liệu nhựa hoặc tôn lá mỏng. - Phần chân đế sản phẩm cần sử dụng một thanh sắt cứng để làm trụ đỡ thay cho chân đế bằng giấy bìa - Sản phẩm có thể phát triển thêm bằng cách thiết kế thêm nhiều thẻ thông tin phục vụ cho việc tra cứu được phong phú hơn. - Có thể tiến hành ghi hình, in băng đĩa lưu lại những sản phẩm sân khấu hóa của học sinh. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CỦA GIẢI PHÁP Đối với học sinh Khả năng áp dụng vào thực tế là 100%, đối tượng áp dụng rộng rãi trên cả nước. Nó có thể áp dụng cho tất cả các đối tượng học sinh, sinh viên khi học tập và làm văn. Nó soi sáng về mặt lý thuyết và nâng cao kĩ năng thực hành, kĩ năng viết văn cho học sinh. Đối tượng áp dụng của giải pháp là đề xuất gửi đến Bộ Giáo Dục và Đào tạo, Cục Khảo Thí, các cơ quan quản lí giáo dục, các nhà quản lí, các nhà chuyên môn, các nhà nghiên cứu về văn học trong nhà trường, đội ngũ các nhà giáo nói chung và các thầy cô giáo dạy Văn nói riêng. Kết quả ứng dụng của giải pháp Thứ nhất là: Giải pháp đã được ứng dụng trong quá trình nghiên cứu ở từng nội dụng vào thực tế giảng dạy cho học sinh trên lớp và bồi dưỡng học sinh giỏi các năm học. Kết quả giảng dạy của tôi nhiều năm liền là giáo viên dạy giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, đã từng là giám khảo chấm môn Ngữ văn trong cuộc thi giáo viên giỏi cấp tỉnh (năm học 2003 -2004). Được Bộ Giáo Dục Đào Tạo cử sang nước CHDCND Lào làm Chuyên gia Giáo dục giảng dạy môn Tiếng Việt tại Lào năm năm liền (từ 2013 đến tháng 6 năm 2018). Trong quá trình công tác giảng dạy tại Lào tôi đạt được nhiều thành tích xuất sắc. Kết quả học sinh học đại trà sau khi áp dụng phương pháp được nâng cao, hầu như tất cả học sinh đều có thể tự lập cánh sinh trong khi làm văn. Các giờ văn áp dụng những phương pháp trên học sinh đã nhập tâm học say mê, phát huy được năng lực cũng như niềm đam mê văn chương cho các em. Nâng cao hiệu quả của tiết học văn, tác động tích cực đến nhân cách và tâm hồn các em. Thứ hai là: Các nội dung trên đã được tổ chuyên môn và nhà trường triển khai trong các khối lớp Thứ ba là: Tôi có những sáng tác, bài đăng trên youtube ( gần 100 bài) Thứ tư là: Việc nghiên cứu ứng dụng văn học kết nối với tình hình văn hóa, chính trị ở địa phương. Khả năng nhân rộng của giải pháp Trong quá trình nghiên cứu và thử nghiệm cũng như áp dụng giải pháp, tôi tin tưởng rằng giải pháp này sẽ được ứng dụng và nhân rộng trên phạm vi cả nước và cho những con em Việt Nam đang sinh sống ở ngoài nước một cách rộng rãi và phổ biến.. Hiệu quả kinh tế của giải pháp Khi áp dụng giải pháp mới học sinh sẽ làm chủ được thời gian, áp dụng kĩ thuật viết tốt hơn, nhanh và hiệu quả hơn. Trung bình một học sinh rút ngắn được một nửa thời gian làm bài, tăng hiệu quả bài viết, có thời gian huy động kiến thức và mở rộng vấn đề tối đa trong khuôn khổ thời gian quy định . Hiệu quả xã hội của giải pháp Giải pháp mới mang lại hiệu quả xã hội vô cùng lớn: - Thứ nhất là nó làm cho chương trình môn Ngữ văn (Tiếng Việt) “mềm hơn”, nhẹ nhàng, gần gũi và thiết thực hơn. - Thứ hai là nó làm cho môn Văn (tiếng Việt) có tính ứng dụng cao hơn, linh hoạt hơn trong giao tiếp, ứng xử. - Thứ ba là nó nâng cao vị thế của môn Văn (Tiếng Việt) trong nhà trường so với các môn học khác. - Thứ tư là nó sẽ tạo ra một môi trường nhân văn trong toàn xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống, làm sạch tinh thần và thanh lọc tinh tâm hồn con người Do đặc điểm của môn Ngữ văn, học sinh phải tự học, tự tìm tòi là chính. Chuẩn bị bài, đọc tác phẩm, xem chú thích, trả lời các câu hỏi ở sách giáo khoa, tham khảo sách, vận dụng kiến thức cũ. Về nhà suy ngẫm, chiêm nghiệm, làm phú cho nhận thức của mình Đây cũng chỉ là cách đọc thích hợp cho học sinh khá, giỏi nhưng đối với học sinh trung bình trở xuống thì các em khó thự hiện được như thế. Đối với giáo viên: - Học tập, trao đổi thường xuyên trong tổ nhóm chuyên môn về ứng dụng Stem văn học ở các khối lớp và cụ thể theo chủ đề. 3.4. Kết quả đạt được: * KẾT QUẢ KHẢO SÁT HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRƯỜNG SAU KHI TRIỂN KHAI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: * Trước khi áp dụng sáng kiến. Học sinh khảo sát Giỏi Khá Trung bình Yếu - kém 34 5,7% 28,6% 45,7% 20% * Sau khi áp dụng sáng kiến Häc sinh khảo sát Giỏi Khá Trung bình Yếu kém 34 23% 54% 23% 0% Có lẽ trong nhà trường không có môn khoa học nào có thể thay thế được môn văn. Đó là môn học vừa hình thành nhân cách vừa hình thành tâm hồn. Trong thời đại hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển rất nhanh, môn văn sẽ giữ lại tâm hồn con người, giữ lại những cảm giác nhân văn để con người tìm đến với con người, trái tim hòa cùng nhịp đập trái tim. Sau khi nghiên cứu, tham khảo sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân người dạy và người học sẽ có cái nhìn mới mẻ, tích cực hơn về phương pháp dạy và học văn biểu cảm, Từ đó, rất hi vọng kết quả học văn của các em sẽ tốt hơn, các em sẽ yêu thích, ham mê môn văn hơn nữa.Trong giảng dạy, bên cạnh việc giúp học sinh nắm bắt kiến thức trọng tâm của bài học thì việc rèn luyện kĩ năng sẽ giúp học sinh có đinh hướng trong việc tìm hiểu, phân tích tác phẩm văn học và tạo lập văn bản khi thực hành. Cho nên việc hướng dẫn học sinh cách làm văn nghị luận về tác phẩm văn học sẽ góp phần nâng cáo chất lượng dạy và học, đáp ứng được chuẩn kiến thức và kĩ năng trong phương pháp dạy học mới hiện nay. Tuy nhiên, đó chỉ là kinh nghiệm mang tính chất chủ quan, rất mong sự đóng góp ý kiến, trao đổi, bổ sung của bạn đồng nghiêp. 3.5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến *Đối với phụ huynh Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều về thời gian cho con cái học tập ,không nên để cho các em phụ giúp nhiều công việc gia đình Hướng dẫn và tạo cho con thói quen đọc sách; chia sẻ tư vấn, trải nghiệm thực tế, học hỏi, xây dựng mô hìnhđịnh hướng bồi dưỡng tâm hồn cho con để các em có nhiều thuận lợi trong việc bộc lộ và phát triển cảm xúc , suy nghĩ, tình cảm trong cuộc sống nói chung và trong việc làm văn nghị luận nói riêng Phối hợp chặt chẽ ,thường xuyên với giáo viên bộ môn văn để tìm hiểu nắm bắt kịp thời tình hình học tập của con em mình *Đối với phòng giáo dục Tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn văn trong từng năm để giáo viên có dịp trao đổi kinh nghiệm ,bàn luận tìm ra biện pháp tối ưu ,tích cực nâng cao chất lượng dạy học môn văn Có kế hoạch tham mưu với cấp trên có chế độ đãi ngộ hợp lí đối với giáo viên giảng dạy phụ đạo thêm cho học sinh yếu kém môn văn. Đầu tư trang thiết bị ,dụng cụ trực quan ,đặc biệt là đầu tư công nghệ thông tin để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy văn. *Đối với địa phương Quản lí chặt chẽ các điểm kinh doanh internet và các điểm dịch vụ không lành mạnh, làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Quan tâm sát sao,hiệu quả đến chất lượng giáo dục ở địa phương ,đầu tư cơ sở vật chất kịp thời phục vụ cho việc dạy và học. Tài liệu tham khảo Sách giáo khoa và Sách giáo viên Ngữ văn 7 Phương pháp dạy học tích cực Học chương trình tập huấn giáo viên 2018 và thực hành các mô đun. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền Tôi cam kết sáng kiến trên không sao chép và vi phạm bản quyền. Độc lập, ngày 26 tháng 4 năm 2020 CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN TÁC GIẢ SÁNG KIẾN Nguyễn Thị Phương Đôc Lập, ngày 02 tháng 01 năm 2021 Xác nhận của nhà trường Ý kiến của tổ chuyên môn Giaó viên thực hiện Nguyễn Thị Phương
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_cau_lac_bo_stem_van_hoc_chung_em_yeu_t.docx