Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy

 Trăng đã trở thành đề tài muôn thuở xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Đến với bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Đó là lời nhắc nhở để mỗi chúng ta nhớ về cội nguồn và giữ gìn lẽ sống thủy chung.

 Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức thuổi thơ của nhà thơ và trong chiến tranh: “Hồi nhỏ sống với đồng

 với sông rồi với bể

 hồi chiến tranh ở rừng

 vầng trăng thành tri kỉ”

 Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của thuổi thơ. Điệp từ “với” gợi ra trước mắt người đọc một tuổi thơ đầy ắp kỉ niệm, tuổi thơ được vui đùa, hòa mình với thiên nhiên, sông, bể.Khi trở thành người lính, trăng và người vẫn sát cánh bên nhau.Vầng trăng đẹp đẽ, nghĩa tình gắn với những kỉ niệm tuổi thơ và những thnags năm chinh chiến. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đó, tâm sự của những người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trở thành “tri kỉ” của người lính trong nhưng năm tháng máu lửa.

 Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước. Vầng trăng đó, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được: “Trần trụi với thiên nhiên

 hồn nhiên như cây cỏ

 ngỡ không bao giờ quên

 cái vầng trăng tình nghĩa”

 

doc 3 trang cucpham 01/08/2022 2040
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy

Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy
Đề:. Em hãy phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.
 Trăng đã trở thành đề tài muôn thuở xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Đến với bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Đó là lời nhắc nhở để mỗi chúng ta nhớ về cội nguồn và giữ gìn lẽ sống thủy chung.
 	Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức thuổi thơ của nhà thơ và trong chiến tranh: “Hồi nhỏ sống với đồng
 với sông rồi với bể
 hồi chiến tranh ở rừng
 vầng trăng thành tri kỉ”
 Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của thuổi thơ. Điệp từ “với” gợi ra trước mắt người đọc một tuổi thơ đầy ắp kỉ niệm, tuổi thơ được vui đùa, hòa mình với thiên nhiên, sông, bể...Khi trở thành người lính, trăng và người vẫn sát cánh bên nhau.Vầng trăng đẹp đẽ, nghĩa tình gắn với những kỉ niệm tuổi thơ và những thnags năm chinh chiến. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đó, tâm sự của những người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trở thành “tri kỉ” của người lính trong nhưng năm tháng máu lửa. 
 Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước. Vầng trăng đó, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được: “Trần trụi với thiên nhiên
 hồn nhiên như cây cỏ 
 ngỡ không bao giờ quên
 cái vầng trăng tình nghĩa”
Con người và thiên nhiên hài hòa trong mối quan hệ tri kỉ, thủy chung. Từ những năm tháng tuổi thơ hồn nhiên gắn bó với đồng,với sông rồi với bể cho đến những năm tháng ở rừng, bao giờ vầng trăng cũng gần gũi, thân thiết. Hình ảnh so sánh ẩn dụ “ hồn nhiên như cây cỏ” đã tô đậm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong nhữnh năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó cũng là vẻ đẹp tâm hồn của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Vầng trăng đã trở thành một điều gì đó gắn bó, thiêng liêng , là vầng trăng “tình nghĩa” trong lòng mỗi người lính. Người ta cứ đinh ninh về mối quan hệ bền chặt ấy. Nhưng hoàn cảnh sống thay đổi, vầng trăng tình nghĩa ngày xưa đã trở thành quá khứ:
 “Từ hồi về thành phố
 quen ánh điện, cửa gương
 vầng trăng đi qua ngõ
 như người dưng qua đường”
 Vẫn là vầng trăng ngày xưa nhưng con người giờ đã khác xưa. Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, xem như không quen không biết.Tác giả đã rất thành công khi so sánh đối lập giữa hình ảnh vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa trong quá khứ và vầng trăng “như người dưng qua đường” trong hiện tại. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lòng người. Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con người ra khỏi những giá trị tinh thần. Sự vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy ra buộc người lính phải đối mặt: “Thình lình đèn điện tắt
 phòng buyn -đinh tối om
 vội bật tung cửa sổ
 đột ngột vầng trăng tròn”
 Trong tình huống “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vội bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một “người quen”. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn” thiên nhiên ấy không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung. Cuộc đời mỗi con người không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những quanh co, uốn khúc . Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng. Và trong ánh sáng của quá khứ, của ân tình, con người đã nhận ra giá trị của một quá khứ gian lao mà nghĩa tình:
 “Ngửa mặt lên nhìn mặt
 có cái gì rưng rưng
 như là đồng là bể
 như là sông là rừng”
 Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù cho không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thơ: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng làm thức dậy trong tâm trí nhà thơ bao kỉ niệm xưa: kỉ niệm tuổi thơ, những tháng năm chinh chiến. Nguyễn Duy đã nhận ra trăng vẫn tròn đầy, tình nghĩa, thủy chung, vị tha, cao thượng: “Trăng cứ tròn vành vạnh
 kể chi người vô tình
 ánh trăng im phăng phắc
 đủ cho ta giật mình”
 Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Hình ảnh ấy không chỉ thể hiện vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của cuộc sống mà còn có ý nghĩa biểu tượng cho nghĩa tình quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, không một lời oánh hờn trách cứ nhưng đôi khi im lặng lại là sự trừng phạt nghiêm khắc nhất.. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên quá khứ nhưng thiên nhiên và nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy. 
 “Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: hãy biết quý trọng những giá trị tinh thần. Bài thơ không chỉ hay về mặt nội dung mà còn có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình đã gây ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.Với giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng, tứ thơ bất ngờ và mới lạ, “Ánh trăng” còn là lời nhắc nhở về lối sống thủy chung để con người nhìn lại chính mình và sống đẹp hơn, nghĩa tình hơn.

File đính kèm:

  • docphan_tich_bai_tho_anh_trang_cua_nguyen_duy.doc