Ôn tập Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Đồng chí" (Chính Hữu)

Tác phẩm:

 a.Hoàn cảnh sáng tác

-Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) của quân và dân ta đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc

b. Vị trí: Rút từ tập thơ “Đầu súng trăng treo”, là bài thơ thành công của Chính Hữu, là tác phẩm tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp

c. Nhan đề: Đồng chí: chỉ những người có cùng chí hướng lí tưởng, những người cùng ở trong một đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách mạng hay gọi nhau là đồng chí. Từ sau CMT8 năm 1945, đồng chí đã trở thành từ xưng hô quen thuộc trong các cơ quan, đoàn thể và đơn vị quân đội.

d. Mạch cảm xúc

-Bài thơ theo thể tự do, gồm hai mươi dòng chia làm ba đoạn. Cả bài thơ tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội, nhưng ở mỗi đoạn sức nặng của tư tưởng và cảm xúc được dẫn dắt để dồn tụ vào những dòng thơ gây ấn tượng sâu đậm (các dòng thứ bảy, mười bảy và hai mươi).

-Sáu dòng đầu có thể xem là sự lý giải về cơ sở của tình đồng chí. Dòng thứ bảy có cấu trúc đặc biệt (chỉ một từ với dấu chấm than) như một phát hiện, một lời khẳng định sự kết tinh tình cảm giữa những người lính.

-Mười dòng tiếp theo, mạch cảm xúc sau khi dồn tụ ở dòng thứ bảy lại tiếp tục khơi mở trong những hình ảnh, chi tiết biểu hiện cụ thể, thấm thía tình đồng chí và sức mạnh của nó.

-Ba dòng thơ cuối được tác giả tách ra thành một đoạn kết, đọng lại và ngân rung với hình ảnh đặc sắc “Đầu súng trăng treo” như là một biểu tượng giàu chất thơ về người lính.

 

docx 20 trang cucpham 01/08/2022 1080
Bạn đang xem tài liệu "Ôn tập Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Đồng chí" (Chính Hữu)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ôn tập Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Đồng chí" (Chính Hữu)

Ôn tập Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Đồng chí" (Chính Hữu)
 ĐỒNG CHÍ -CHÍNH HỮU
I/ Đọc- Tìm hiều chung
1.Tác giả
-Quê quán: Can Lộc, Hà Tĩnh
-Chính Hữu là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Ông hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. 
-Ông làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Thơ ông không nhiều nhưng lại có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. “Đồng chí”là một bài thơ như thế.
- Quan niệm văn chương: “Chỉ có những bài thơ hay nếu mỗi câu thơ đều có dính máu của mình trong đó.” Dùng hình ảnh “máu”, Chính Hữu muốn nói tới cái phần tâm huyết tạo nên sự sống tinh thần của con người trong thơ (cũng như máu tạo nên sự sống cho cơ thể). Bằng cách nói hình ảnh, Chính Hữu đã vạch ra một chân lý trong sáng tác thơ ca: trong thơ, cảm xúc phải mãnh liệt, chân thành; phải là những điều gan ruột không nói ra không được. Nghĩa là điều cốt yếu đầu tiên tạo nên sự sống trong thơ là ở tấm lòng nhà thơ có chân thành, cảm xúc trong tâm hồn nhà thơ có dạt dào mãnh liệt không.
-Bài thơ này đã ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử của các anh bộ đội cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời chín năm kháng chiến chống Pháp. Chính bài thơ đã khơi dậy những xúc động mạnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ. 
2.Tác phẩm:
 a.Hoàn cảnh sáng tác
-Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) của quân và dân ta đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc
b. Vị trí: Rút từ tập thơ “Đầu súng trăng treo”, là bài thơ thành công của Chính Hữu, là tác phẩm tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp
c. Nhan đề: Đồng chí: chỉ những người có cùng chí hướng lí tưởng, những người cùng ở trong một đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách mạng hay gọi nhau là đồng chí. Từ sau CMT8 năm 1945, đồng chí đã trở thành từ xưng hô quen thuộc trong các cơ quan, đoàn thể và đơn vị quân đội. 
d. Mạch cảm xúc 
-Bài thơ theo thể tự do, gồm hai mươi dòng chia làm ba đoạn. Cả bài thơ tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội, nhưng ở mỗi đoạn sức nặng của tư tưởng và cảm xúc được dẫn dắt để dồn tụ vào những dòng thơ gây ấn tượng sâu đậm (các dòng thứ bảy, mười bảy và hai mươi). 
-Sáu dòng đầu có thể xem là sự lý giải về cơ sở của tình đồng chí. Dòng thứ bảy có cấu trúc đặc biệt (chỉ một từ với dấu chấm than) như một phát hiện, một lời khẳng định sự kết tinh tình cảm giữa những người lính. 
-Mười dòng tiếp theo, mạch cảm xúc sau khi dồn tụ ở dòng thứ bảy lại tiếp tục khơi mở trong những hình ảnh, chi tiết biểu hiện cụ thể, thấm thía tình đồng chí và sức mạnh của nó.
-Ba dòng thơ cuối được tác giả tách ra thành một đoạn kết, đọng lại và ngân rung với hình ảnh đặc sắc “Đầu súng trăng treo” như là một biểu tượng giàu chất thơ về người lính.
e. Bố cục: 3 đoạn
+ Đoạn 1: 7 câu thơ đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí 
+ Đoạn 2: 10 câu thơ tiếp theo: Những biểu hiện của tình đồng chí
+ Đoạn 3: 3 câu kết: Biểu tượng đẹp về tình đồng chí.
VD MỞ BÀI:
Chính Hữu là nhà thơ thành công với đề tài người lính và chiến tranh. Nói đến thơ ca kháng chiến chống Pháp không thể không kể đến bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Bài thơ mang vẻ đẹp giản dị của tình đồng đội, đồng chí. Đó là tình cảm mộc mạc nhưng thật sâu sắc của những người lính cụ Hồ trong những năm tháng kháng chiến gian khổ, ác liệt.
II.Đọc-hiểu văn bản:
1/Bảy câu đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí
Bài thơ mở đầu là lời tâm sự của hai người chiến sĩ:
 “Quê hương anh nước mặn đồng chua 
 Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
- “Quê hương anh”, “làng tôi”: Đều mang nghĩa chỉ quê hương, gốc gác, nguồn cội. Song là “anh” và “tôi” thì “quê hương” và “làng” trở thành gốc gác cụ thể, nguồn cội riêng biệt của hai con người.
- Đặc điểm của gốc gác, nguồn cội ấy được biểu hiện qua 2 cụm từ mang ý nghĩa cô đúc “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”.
-Chính Hữu đã khắc hoạ thành công cái chất hiền lành, tình nghĩa mộc mạc mà dung dị cũng như tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng cao cả của những người lính nông dân áo vải.
 +Thành ngữ: “nước mặn đồng chua”: là vùng đồng bằng chiêm trũng ven biển nhiễm phèn khó làm ăn, cày cấy.
 +Hình ảnh: “đất cày lên sỏi đá”: vùng trung du, đồi núi đất đai khô cằn, bị đá ong hoá, khó canh tác.
+Nghệ thuật sóng đôi “quê hương anh-làng tôi” gây ấn tượng về sự chất chồng, nối tiếp của khó khăn với khó khăn, nhọc nhằn cùng cơ cực song quan trọng nhất nó tạo nên sự gặp gỡ đầu tiên của hai con người – sự tương đồng về cảnh ngộ. Mà theo lẽ thường, sự đồng cảnh chính là cơ sở đầu tiên tạo mối đồng cảm. Với chi tiết này, nhà thơ đã sớm gieo một cái mầm để nó nảy nở lên thành ý tưởng về tình đồng chí.
-Họ là những người nông dân từ những vùng quê lam lũ đói nghèo, quanh năm chỉ biết đến con trâu mảnh ruộng, các anh giã từ quê hương lên đường chiến đấu.
-Tuy hai miền đất xa nhau, “đôi người xa lạ” nhưng cùng giống nhau ở cái nghèo và cùng về đây tập hợp lại trong đội quân cách mạng
-Từ mọi miền quê trên dải đất quê hương, những con người xa lạ bỗng đứng lên theo tiếng gọi của Tổ quốc, cùng họp lại với nhau, trở thành một con người mới: Người Lính.
→Sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân và xuất phát từ điểm chung là tình yêu đất nước đã tạo cơ sở ban đầu để hình thành tình đồng chí.(đồng cảnh, cùng chung giai cấp)
 "Anh với tôi đôi người xa lạ
 Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
- Buổi đầu: “tự phương trời” là từ những phương trời, những miền đất khác nhau - khoảng cách không gian. “Đôi người xa lạ” là những người hoàn toàn lạ, không hề quen biết, chưa từng có mối quan hệ với nhau - khoảng cách của tâm hồn, tình cảm khi chưa hình thành mối dây liên hệ. Nghĩa là ở cái buổi đầu ấy ta không thấy có chút dự báo nào về sự gắn bó, tình cảm.
“Quen”: mối hiểu biết, sự thông thuộc do tiếp xúc, hoặc có quan hệ, có sự hiểu biết mà có.
“Chẳng hẹn quen nhau” - “Không hẹn mà nên”, “không hẹn mà gặp” - nhìn qua ngỡ họ vô tình quen biết, đọc kỹ lại thấy cơ sở tạo nên mối quen biết của họ chính là tiếng gọi của Tổ quốc, của lòng yêu nước ở những người thanh niên chân chính.
-Cụm từ “anh với tôi” và từ “đôi” đã nhấn mạnh sự gắn bó, keo sơn của những người lính. Họ là những người xa lạ, chẳng hẹn mà nên quen bởi họ có chung tình yêu đất nước.
-Đoạn thơ gợi nhớ đến những câu thơ trong bài “Nhớ” (Hồng Nguyên):
“Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
 Quen nhau từ buổi “một, hai”
-Đôi bạn gắn bó với nhau bởi bao kỉ niệm đẹp:
 “Súng bên súng đầu sát bên đầu
 Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
 Đồng chí!”
- Hình ảnh: “súng” - vừa là hình ảnh cụ thể, vừa là biểu tượng về cuộc chiến đấu, về nhiệm vụ mà người lính cần gánh vác. “Súng bên súng”: cùng chung kẻ thù, chung nhiệm vụ, cùng chung ý chí chiến đấu
-“Đầu” là hình ảnh thuộc về con người - gắn với lý tưởng, nhận thức và khát vọng; “chăn” là vật dụng đời thường cũng là biểu tượng cho đời sống sinh hoạt riêng tư, bình dị. Đầu sát bên đầu: cùng chung lí tưởng đánh giặc bảo vệ quê hương
- Nghệ thuật điệp cấu trúc “súng bên súng” “đầu sát bên đầu” và hình ảnh gợi mối quan hệ gắn bó “đêm rét chung chăn” nhấn mạnh vào sự gắn bó khăng khít trong nhiệm vụ, trong lí tưởng và trong cả những sinh hoạt đời thường - những cơ sở quan trọng tạo thành mối quan hệ gắn bó thắm thiết.
-Đây là hai hình ảnh cụ thể được hoán dụ, lại sắp xếp theo kiểu sóng đôi, kết hợp với phép đối và điệp ngữ (súng, đầu, bên)→nhấn mạnh sự gắn kết, sát cánh bên nhau của những người lính khi họ cùng chung lí tưởng, chung nhiệm vụ, chung một chiến hào.
Nhất là hình ảnh chiếc chăn trong “đêm rét” còn gợi mối liên hệ ấm áp - cái ấm áp của cảm giác dẫn đường cho cái ấm áp trong lòng.
-Ngày cùng chung nhiệm vụ chiến đấu vai kề vai, “súng bên súng”, chia nhau gian khổ, nguy hiểm, đêm đắp chung một chiếc chăn chịu rét. “Chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, khó khăn của cuộc đời người lính, là chung hơi ấm để vượt qua cái lạnh.
- Từ ngữ: “tri kỉ” - mối quan hệ bạn bè thân thiết giữa những người hiểu rõ lòng nhau.
(Giảng kĩ về tình tri kỉ, từ tình bạn đến tình tri kỉ là cả quá trình)
-Từ những người “xa lạ” những người lính đã thành “đôi tri kỉ”, về sau thành “đồng chí”.
-Những người lính hiểu ra họ có cùng chung quê hương vất vả khó nghèo, chung tình giai cấp, chung lí tưởng và mục đích chiến đấu.
Cả 7 câu thơ có duy nhất từ “chung” nhưng bao hàm nhiều ý: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng, chung một khát vọng
-Những cái chung đã biến những con người xa lại thành đôi tri kỉ. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc để làm nên tình bạn, tình đồng chí.
Nhìn lại cả 7 câu thơ đầu những từ ngữ nói về người lính: đầu tiên là “anh”, “tôi” trên từng dòng thơ như một kiểu xưng danh khi mới gặp gỡ, dường như giữa họ vẫn là hai thế giới riêng biệt. Rồi “anh với tôi” trong cùng một dòng, đến “đôi người” nhưng là “đôi người xa lạ”, và rồi đã biến thành đôi tri kỷ - một tình bạn keo sơn, gắn bó, thấu hiểu lẫn nhau. Và cao hơn nữa là “đồng chí”. Như vậy, từ rời rạc riêng lẻ, những người lính đã dần nhập thành chung, thành một, khó tách rời.
Hai tiếng “Đồng chí!” Đây là câu thơ rất đặc biệt, độc đáo: Bởi nó chỉ là một từ ghép có hai tiếng “Đồng chí” và dấu chấm cảm, nó nhắc lại nhan đề và kết thúc khổ thơ tạo sự sâu lắng chỉ với hai chữ “Đồng chí”. Nó được coi là linh hồn của bài thơ, tạo một nét nhấn như một điểm tựa, như đòn gánh, gánh hai đầu là những câu thơ đồ sộ. Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một tiếng gọi trầm xúc động từ trong tim, lắng đọng trong lòng người về 2 tiếng mới mẻ, thiêng liêng ấy. Câu thơ như một bản lề gắn kết hai phần bài thơ làm nổi rõ một kết luận: cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng lý tưởng thì trở thành đồng chí của nhau. Đồng thời nó cũng mở ra ý tiếp theo: những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí.
- Nếu ở thời nay, tiếng “đồng chí” đã trở nên phổ biến, thông thường và dễ nhòa lẫn với các đại từ nhân xưng khác bởi cu ... nhớ của hậu phương với người ra trận, vừa nói được nỗi nhớ của người lính với quê hương, nỗi nhớ hai chiều ngày càng da diết.
“Nhớ”: nghĩ đến với tình cảm tha thiết muốn được gặp hay được thấy người hoặc cảnh thân thiết nào đó đang ở cách xa mình. Điều rất lạ là chủ thể của nỗi nhớ lại là “giếng nước gốc đa” - hiện thân của quê hương và đối tượng của nỗi nhớ là anh - “người ra lính”. Nhưng lạ mà hoàn toàn có thể hiểu và cảm được: vì muốn thể hiện đến cùng sự cứng cỏi mà anh đâu thể trực tiếp thể hiện được nỗi nhớ trong lòng mình. Cách nói hoán đổi này thật tế nhị và cũng thật sâu sắc: là quê hương nhớ thương người ra lính, song cảm biết được nỗi nhớ của quê hương phải là một tấm lòng tha thiết hướng về, như đứa con vô tâm thì sao hiểu nỗi ngóng trông của mẹ già hôm mai luôn tựa cửa! Cách nói ấy không chỉ là cái khéo léo của kỹ thuật, nghệ thuật mà là sự cảm hiểu đến tận đáy lòng nhau.
b. Sự sẻ chia chân tình:
Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính
 “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
 Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
 Áo anh rách vai
 Quần tôi có vài mảnh vá
 Miệng cười buốt giá
 Chân không giày
 Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!"
- Sự lặp lại của một hình thức diễn đạt để gợi mở một nội dung mới: 
“Anh với tôi đôi người xa lạ.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.”
Từ “xa lạ” đến “biết” là một sự thay đổi. Song cái “biết” mà nhà thơ nói ở đây không phải là quen biết, cũng không chỉ là nhận biết mà là trải nghiệm. Mà nội dung trải nghiệm lại là một thử thách khắc nghiệt của đời lính: những trận sốt rét rừng. Nhà thơ Trần Lê Văn từng kể rằng “Lính Tây Tiến đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều” đủ thấy cái sức mạnh bòn rút, tiêu hao sức sống của những cơn sốt rét nó ghê gớm đến mức nào. Hơn nữa, cũng chỉ có trải nghiệm trực tiếp mới đem đến những cảm nhận cụ thể về biểu hiện của cơn sốt rét: “cơn ớn lạnh” “run người” “vầng trán ướt mồ hôi”.
“Ớn lạnh”: cái lạnh từ trong ra làm gai người.
“Run”: rung động nhẹ chân tay hoặc cơ thể do sự co giật khẽ của các cơ gây ra bởi cơn sốt.
“Ướt mồ hôi”: trạng thái nhọc mệt vì cơn sốt hành hạ, rút kiệt sức lực của con người. Trong điều kiện bình thường, nó sẽ khiến người ta mệt mỏi, chán nản. Trong thời kỳ chiến tranh, nó là thử thách làm tỏa sáng ý chí con người.
-Vẻ đẹp tâm hồn nơi người lính không chỉ xuất phát từ những hiện thực khó khăn hiểm nguy mà còn phát ra từ vừng ánh sáng lung linh, chính là tình đồng đội. 
-Vượt rừng đâu phải chuyện dễ dàng! Những căn bệnh quái ác, những cơn sốt rét rừng mà không có thuốc điều trị, những đêm tối lạnh buốt xương, những thiếu thốn vật chất của đoàn quân làm sao kể hết. Nhưng những người lính đã cùng nhau vượt qua. Họ lo cho nhau vượt qua từng cơn sốt, từng miếng áo rách, quần vá. Với họ, quan tâm tới những người đồng đội giờ đây cũng như là quan tâm chăm sóc cho chính mình. 
-Ta cũng từng bắt gặp hình ảnh người lính phải đối mặt với gian khổ nơi chiến trường, những cơn sốt rét khiến họ “không mọc tóc” trong câu thơ của Quang Dũng:
 “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm” 
 (Tây tiến-Quang Dũng)
-Những hình ảnh thơ chân thực nhưng cô đọng và gợi cảm biết bao: áo rách, quần vá, chân không giày -> nhấn mạnh sự thiếu thốn vật chất của những người lính ở chiến trường, các anh phải đối mặt với hiện thực khắc nghiệt, đồng cam cộng khổ cùng nhau.
-Tác giả đã xây dựng những cặp câu sóng đôi, đối xứng nhau: “Áo anh rách vai/Quần tôi có vài mảnh vá” (trong từng cặp câu) và từng câu: “anh với tôi”.
-Đáng chú ý là người lính bao giờ cũng nhìn bạn, nói về bạn trước khi nói về mình, chữ “anh” bao giờ cũng xuất hiện trước chữ “tôi”. Cách nói ấy phải chăng thể hiện nét đẹp trong tình cảm của người lính: coi trọng người đồng chí của mình hơn cả bản thân.
-Hình ảnh “miệng cười buốt giá”: đối mặt với khó khăn, những người lính không hề một chút sợ hãi, những thử thách giữa nơi rừng thiêng nước độc cứ kéo đến liên miên nhưng người lính vẫn đứng vững, vẫn “miệng cười buốt giá”. →hình ảnh của sự lạc quan, yêu cuộc sống, là sự động viên giản dị của những người lính với nhau. Từ trong sự bình thường, hình ảnh người lính của Chính Hữu vẫn ánh lên vẻ đẹp rực rỡ của lí tưởng, sẵn sàng đối mặt với khó khăn gian khổ, giữ vững tinh thần lạc quan cách mạng.
-Hành động: “tay nắm lấy bàn tay” :Ôi ấm áp biết mấy là cái xiết tay của đồng đội lúc gian khó. Cái xiết tay truyền đi hơi ấm, sức mạnh cho ý chí con người. Và cùng nhau, giúp đỡ nhau, những người lính vượt qua với tư thế ngẩng cao đầu trước mọi thử thách, gian nan-> diễn tả sâu sắc sự gắn bó đồng cam cộng khổ của các anh.
(Hình ảnh : thương nhau tay năm lấy bàn tay gợi nhiều xúc cảm. Hành động nắm lấy bàn tay là phương thuốc duy nhất đặt trong hoàn cảnh đó để ng lính vượt qua cái khủng khiếp của những cơn sốt rét rừng khiến cho vầng trán họ đẫm mồ hôi,là phương thuốc tinh thần quý giá. Trong câu thơ chỉ có hành động, không có lời nói nhưng chúng ta vẫn có thể tưởng tượng được, cùng với hành động nắm lấy bàn tay là ánh mắt đầy sẻ chia, yêu thương, lo lắng, khích lệ ở trong đó. Bàn tay nắm lấy bàn tay là một ngôn ngữ không có lời nhưng chính trong cái ngôn ngữ không lời đó, bàn tay đã truyền đi cho nhau hơi ấm, sức mạnh, chỗ dựa về mặt tinh thần. Có phải trong suốt cuộc đời mình, chúng ta cảm thấy hạnh phúc nhất là trong những lúc khốn khó nhất của cuộc đời, ai đó chì ra cho chúng ta một bàn tay. Có phải ta thấy trong những lúc ta buồn thì cái người bạn thân mà ta mong đợi nhất không phải là người xuất hiện bên cạnh chúng ta khuyên giải, giảng giải cho ta mọi điều mà đơn giản thôi, đó là người ở bên cạnh ta lúc đó, lặng lẽ nắm lấy bàn tay ta hoặc để cho chúng ta có thể khóc òa và cho ta mượn bờ vai để dựa vào. Cho nên hình ảnh bàn tay hay hình ảnh bờ vai trong văn học luôn là biểu tượng cho sự gắn kết, sự yêu thương, sự sẻ chia.
-Câu thơ “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” không chỉ nói lên tình cảm gắn bó sâu nặng của những người lính mà còn thể hiện sức mạnh của tình đoàn kết. 
═˃Nhờ có tình đoàn kết, gắn bó, sẻ chia gian khổ, sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội mà người lính đã cùng nhau vượt qua tất cả khó khăn gian khổ, sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy để hoàn thành nhiệm vụ, lập nên những chiến công hiển hách.
3/Ba câu cuối: Biểu tượng cao đẹp về tình đồng chí
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh rất đặc sắc:
 “Đêm nay rừng hoang sương muối
 Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới 
 Đầu súng trăng treo”.
- “Rừng hoang”: cái mênh mông ngút ngàn, nơi hoang vu xa lạ, nơi có thể chứa đầy bất trắc - nhất là ở thời khắc “đêm” - khi bóng tối vây bọc, trùm lấp toàn bộ không gian.
- “Sương muối”: sương giá đọng thành hạt nhỏ trắng xóa như muối trên cây cỏ hay mặt đất - cái khắc nghiệt của thời tiết.
-> Tạo ra một cái nền để làm bật lên vẻ đẹp của hình tượng người lính và của tình đồng chí.
-Bức tranh đơn sơ, thi vị về người lính trong một đêm chờ giặc tới giữa nơi rừng hoang sương muối. Trong cảnh “rừng hoang sương muối” - rừng mùa đông ở Việt Bắc sương muối phủ đầy trời, nhưng những người lính vẫn đứng cạnh bên nhau, im lặng, phục kích chờ giặc tới.
-Từ “chờ” khắc họa được tư thế chủ động, sẵn sàng chiến đấu của họ.
Mặt khác, hai từ “cạnh bên” đi liền với nhau đã nhấn mạnh sự kề vai sát cánh của những người lính làm mờ đi cái gian khổ ác liệt của cuộc chiến, tạo nên tư thế thành đồng vách sắt trước quân thù, cùng hướng mũi súng vào kẻ thù.
-Hình ảnh “đầu súng trăng treo”: là hình ảnh độc đáo, bất ngờ, là nhãn tự của toàn bài thơ. Trong cái vắng lặng bát ngát của rừng khuya, trăng bất ngờ xuất hiện chơi vơi lơ lửng nơi đầu súng.→hình ảnh vừa chân thực vừa lãng mạn, thi vị.
-Đây là hình ảnh thật: trong những đêm hành quân, phục kích chờ giặc, nhìn trăng treo trên nền trời mà ngỡ là trăng treo trên đầu súng.
“Súng” và “trăng” là sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa gần và xa, là vẻ đẹp của chất chiến sĩ và nghệ sĩ. Một bên là vầng trăng- biểu tượng cho cuộc sống tươi đẹp, hoà bình. Một bên là súng- biểu tượng cho chiến tranh và cái chết. Nhưng súng đã trở thành lí tưởng cao đẹp, tinh thần chiến đấu vì cuộc sống hoà bình dân tộc của người chiến sĩ. Trăng là vẻ đẹp lãng mạn, súng là hiện thực . 
-Tuy đối lập, nhưng hai hình tượng này đã tôn thêm vẻ đẹp cho nhau, tạo nên vẻ đẹp hoàn mĩ nhất . Qua ý thơ này, Chính Hữu muốn khẳng định: để cho vầng trăng kia sáng mãi, trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, mọi người phải cầm súng chiến đấu. Vầng trăng vừa là bạn đồng hành của cây súng vừa là đối tượng bảo vệ của cây súng nơi biên cương, trên mỗi tấc đất vạt rừng của Tổ quốc. Cảm nhận được sự bình yên và vẻ đẹp thi vị, thơ mộng này ta mới thấm thía cái giá phải trả cho hòa bình cũng hiểu rõ hơn động lực để người lính sẵn sàng “gian nhà không mặc kệ gió lung lay”!
-Hình ảnh “đầu súng trăng treo" trở thành một trong những hình ảnh đẹp nhất thơ ca kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh gây được ấn tượng thẩm mĩ sâu sắc với người đọc.
Trăng và súng kết thành một không gian thơ trữ tình, là biểu tượng cho tình thần dũng cảm, hào hoa muôn thưở của dân tộc nói chung và ngừơi lính nói riêng.
═˃Tóm lại, chỉ bằng ba câu thơ thôi nhưng tác giả đã phác họa nên một bức tượng đài sừng sững về người lính– biểu tượng đẹp đẽ giàu chất thơ về tình đồng chí, đồng đội. 
(Học bài thơ “Đồng chí”, em có suy nghĩ gì về tình bạn trong cuộc sống ngày nay, theo em, tình bạn có ý nghĩa như thế nào đối với mỗi người và em sẽ làm gì để giữ gìn tình cảm quý báu ấy?)
III.Kết bài:
Bài thơ kết thúc nhưng như một bài ca vẫn ngân vang mãi trong lòng người đọc. Nó đã làm sống lại một thời khổ cực của ông cha ta thời chiến tranh ác liệt. Nó khơi gợi lại những kỷ niệm đẹp, những tình cảm tha thiết gắn bó yêu thương mà chỉ có những người đã từng là lính mới có thể hiểu và cảm nhận hết được.
Với nhiều hình ảnh chọn lọc, từ ngữ gợi cảm mà lại gần gũi thân thuộc, với biện pháp sóng đôi, đối ngữ được sử dụng rất thành công, Chính Hữu đã viết nên một bài ca về tình đồng chí bình dị mà có sức ngân vang. Chính vì thế, bài thơ được nhiều người đọc yêu thích 

File đính kèm:

  • docxon_tap_ngu_van_lop_9_van_ban_dong_chi_chinh_huu.docx