Ôn tập Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Cảnh ngày xuân"

1.Tác giả-tác phẩm

-Nguyễn Du là một đại thi hào của nền văn học Việt Nam. Sở dĩ nhà thơ đạt được niềm vinh quang đó vì ông đã sáng tác được một tác phẩm có giá trị, trở thành tác phẩm xuất sắc nhất của văn học trung đại Việt Nam-«Truyện Kiều». Cảm hứng nhân đạo và vẻ đẹp ngôn từ của truyện thơ này đã chinh phục trái tim bao thế hệ bạn đọc. Đọc đọan trích «Cảnh ngày xuân» chúng ta càng càng cảm phục bút pháp miêu tả cảnh vật giàu chất tạo hình, miêu tả tâm trạng nhân vật độc đáo của thi hào Nguyễn Du.

2. Vị trí đoạn trích+bố cục

* Vị trí đoạn trích:

-Đoạn trích nằm ở phần đầu “Truyện Kiều”. Sau khi giới thiệu gia cảnh và tài sắc chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du trình bày bối cảnh Thúy Kiều gặp nấm mồ Đạm Tiên và gặp Kim Trọng. Đó là cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh, chị em Kiều đi chơi xuân. Cảnh ngày xuân cứ hiện dần ra theo trình tự cuộc “bộ hành chơi xuân” của chị em Thúy Kiều.

*Bố cục: 3 phần

-Bốn câu thơ đầu: gợi tả cảnh đẹp ngày xuân

-Tám câu tiếp theo: gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.

-Sáu câu cuối: cảnh chị em Thúy Kiều đi chơi xuân trở về.

→Đoạn thơ được kết cấu theo trình tự thời gian của cuộc du xuân.

 

docx 9 trang cucpham 01/08/2022 1000
Bạn đang xem tài liệu "Ôn tập Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Cảnh ngày xuân"", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ôn tập Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Cảnh ngày xuân"

Ôn tập Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Cảnh ngày xuân"
 CẢNH NGÀY XUÂN
I.Đọc-tìm hiểu chung:
1.Tác giả-tác phẩm
-Nguyễn Du là một đại thi hào của nền văn học Việt Nam. Sở dĩ nhà thơ đạt được niềm vinh quang đó vì ông đã sáng tác được một tác phẩm có giá trị, trở thành tác phẩm xuất sắc nhất của văn học trung đại Việt Nam-«Truyện Kiều». Cảm hứng nhân đạo và vẻ đẹp ngôn từ của truyện thơ này đã chinh phục trái tim bao thế hệ bạn đọc. Đọc đọan trích «Cảnh ngày xuân» chúng ta càng càng cảm phục bút pháp miêu tả cảnh vật giàu chất tạo hình, miêu tả tâm trạng nhân vật độc đáo của thi hào Nguyễn Du.
2. Vị trí đoạn trích+bố cục
* Vị trí đoạn trích:
-Đoạn trích nằm ở phần đầu “Truyện Kiều”. Sau khi giới thiệu gia cảnh và tài sắc chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du trình bày bối cảnh Thúy Kiều gặp nấm mồ Đạm Tiên và gặp Kim Trọng. Đó là cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh, chị em Kiều đi chơi xuân. Cảnh ngày xuân cứ hiện dần ra theo trình tự cuộc “bộ hành chơi xuân” của chị em Thúy Kiều.
*Bố cục: 3 phần
-Bốn câu thơ đầu: gợi tả cảnh đẹp ngày xuân
-Tám câu tiếp theo: gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.
-Sáu câu cuối: cảnh chị em Thúy Kiều đi chơi xuân trở về.
→Đoạn thơ được kết cấu theo trình tự thời gian của cuộc du xuân.
II/Đọc-hiểu văn bản
1.Bốn câu đầu: Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp.
* Không gian và thời gian của khung cảnh thiên nhiên ngày xuân được Nguyễn Du phác họa ở ngay hai câu thơ đầu:
 “Ngày xuân con én đưa thoi,
 Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
-Tác giả lựa chọn một hình ảnh ẩn dụ rất quen thuộc cho cảnh ngày xuân: “con én đưa thoi”.
+ Tả thực những cánh én bay lượn, chao liệng như thoi đưa trên bầu trời xuân, như chiếc thoi trên khung dệt vải.
+ Gợi không gian cao rộng của bầu trời và một luồng không khí ấm áp của ngày xuân
+ Gợi những bước đi nhanh, vội vã của thời gian, sự trôi chảy của thời gian như những cánh chim vụt bay. 
Gợi nhớ cách nói dân gian: 
 “Thời giờ thấm thoắt thoi đưa
 Hết mưa lại nắng, hết ngày lại đêm”
+ Từ “thiều quang” tả thực những tia nắng ấm áp, lấp lánh của ngày xuân.
+ Gợi một không gian ngày xuân tươi đẹp, rực rỡ, trong lành.
+Cụm từ “chín chục đã ngoài sáu mươi”: thể hiện tâm trạng tiếc nuối của nhân vật vì thời gian trôi nhanh, mới đó đã sang tháng thứ ba của mùa xuân, là khoảng thời gian mà mùa xuân đạt đến độ viên mãn nhất, rực rỡ nhất.
-> Những hình ảnh thơ gợi về sự chuyển động nhanh, vội vã của thời gian đồng thời nói lên tâm trạng có chút tiếc nuối của chị em Thúy Kiều.
Nguyễn Du đã phác họa một bức tranh thiên nhiên của một ngày xuân tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Qua đó, đã gợi được bao nỗi niềm, tâm trạng của nhân vật trữ tình
*Hai câu thơ tiếp theo, Nguyễn Du đã tái hiện một bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp với hai gam màu chủ đạo là xanh, trắng:
 “Cỏ non xanh tận chân trời,
 Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
- Chỉ đơn giản là hình ảnh “cỏ non” song lại tả, gợi được rất nhiều cảm xúc về bức tranh xuân:
 +Hình ảnh này gợi tả những thảm cỏ xanh non đang lan ra, trải rộng, nối liền mặt đất với chân mây. Lời thơ mở ra một bức tranh rộng lớn, bát ngát, không giới hạn
 +Ở đó có sự lan tỏa của sắc xanh: xanh cỏ, xanh trời. Tất cả cho thấy sức sống của mùa xuân đang tuôn trào mãnh liệt. 
+ Từ “tận” đã làm cho không gian xuân như được mở rộng, bao la, bát ngát, thảm cỏ non xanh căng tràn sức sống trải rộng đến cuối tầm nhìn.
- Hình ảnh “cành lê trắng điểm” cho thấy sự tài tình trong bút pháp chấm phá của Nguyễn Du, đây là một đặc trưng của nghệ thuật hội hoạ Trung Quốc:
+ Trên nền cỏ xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng làm cho không gian như thoáng đạt, nhẹ nhàng và thanh khiết hơn
+ Từ “điểm” gợi sự thanh thoát như đôi bàn tay của người họa sĩ, khiến cảnh vật như sống động, có hồn chứ không tĩnh tại
+ Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ: đảo từ “trắng” lên trước làm cho sắc trắng hoa lê thêm tinh khôi, như kết tinh những tinh hoa của trời đất.
-Trong bức tranh xuân ấy, tác giả đã sử dụng những gam màu hòa phối rất đỗi hài hòa: màu xanh của cỏ, sắc trắng hoa lê, gợi lên vẻ trẻ trung, tươi mới, tinh khôi, tràn đầy sức sống của cảnh vật.
=> Với bút pháp chấm phá tài tình, Nguyễn Du đã rất thành công khi phác họa một bức tranh ngày xuân khoáng đạt, tinh khôi, trong trẻo và tràn trề sức sống. Ngòi bút của ông thật tài hoa, giàu chất tạo hình, kết hợp giữa tả và gợi. Đồng thời, qua đó còn gợi lên được bao cảm xúc tươi vui, hứng khởi cũng như chút bâng khuâng, tiếc nuối trong lòng nhân vật trữ tình.
Điều này chứng tỏ phải là người tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên lắm, tác giả mới có thể viết được những câu thơ hay như vậy.
2. Tám câu thơ tiếp: Khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh
a, Những hoạt động trong tiết Thanh minh (hai câu thơ đầu)
Hai câu thơ đầu giới thiệu những hoạt động trong tiết Thanh minh cho thấy Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy về nghệ thuật sử dụng ngôn từ
 “Thanh minh trong tiết tháng ba,
 Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh”
-Thanh minh: vào đầu tháng ba, tiết trời mát mẻ, trong trẻo
- Câu thơ : “Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh” sử dụng nghệ thuật tiểu đối, điệp từ, tách từ: Tách hai từ “lễ hội” ra làm đôi để gợi tả hai hoạt động diễn ra cùng một lúc trong tiết Thanh minh:
+ “Lễ tảo mộ”: Đi viếng và sửa sang phần mộ của người thân, gia đình, tổ tiên. Gợi sự tri ân với tổ tiên của những nam thanh, nữ tú trong ngày đi chơi xuân
+ “Hội đạp thanh”: Đi chơi xuân ở chốn đồng quê và giẫm lên cỏ xanh. Gợi ngày hội vui xuân của nam thanh nữ tú để có thể tìm đến những sợi tơ hồng mai sau.
Câu thơ gợi nét văn hóa đẹp đẽ của dân tộc ta tưởng nhớ về công ơn của những người đã mất. Đó là truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta “Uống nước nhớ nguồn”.
-> “Lễ” và “hội” trong tiết Thanh minh là hai hoạt động văn hóa khác biệt, nhưng trong thơ Nguyễn Du lại có một sự giao hòa độc đáo.
 b, Không khí của ngày hội xuân (sáu câu thơ tiếp)
*Không khí tưng bừng của lễ hội được Nguyễn Du miêu tả sống động bằng hàng loạt các từ hai âm tiết giàu sức biểu đạt:
 “Gần xa nô nức yến anh
 Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
 Dập dìu tài tử giai nhân,
 Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”
- Các danh từ: “yến anh”, “chị em”, “tài tử”, “giai nhân” gợi tả sự đông vui, tấp nập trong ngày hội xuân.
-Các động từ: “sắm sửa”, “dập dìu” gợi tả không khí rộn ràng, náo nhiệt trong ngày hội
- Các tính từ: “gần xa”, “nô nức” gợi tả tâm trạng hồ hởi, phấn khởi của người đi hội.
. Không khí lễ hội được tô đậm hơn qua một số biện pháp tu từ:
- Hình ảnh ẩn dụ: “nô nức yến anh”
+ Gợi từng đoàn người đi chơi xuân, đông đúc, dập dìu như những bầy chim yến, chim oanh ríu rít
+Phép tiểu đối: tài tử/giai nhân kết hợp với từ láy “dập dìu” cho thấy khách du xuân là những trai thanh, gái lịch, họ đến với hội xuân bằng tất cả niềm khao khát, yêu đời của tuổi trẻ
+ Gợi những cuộc trò chuyện xôn xao, tình tứ của những đôi uyên ương trong ngày hội xuân
- Nhịp thơ 4/4, phép tiểu đối và hình ảnh so sánh: “ngựa xe như nước, áo quần như nêm” gợi cho người đọc hình dung được sự đông đúc của từng dòng người đi trẩy hội, ngựa xe nối đuôi nhau như dòng nước bất tận, người dự hội mặc trang phục đẹp đi lại đông đúc, chật như nêm cối.
-Câu thơ được ngắt nhịp đôi 2/2/2, nhịp thơ nhanh, dồn dập nhấn mạnh không khí lễ hội tưng bừng nối tiếp nhau và tâm trạng náo nức, hồ hởi của những khách du xuân, trong đó có chị em Thúy Kiều. 
* Bên cạnh không khí tưng bừng, náo nhiệt ấy, Nguyễn Du đã khéo léo đan cài một khoảng lặng, khiến cho không gian cũng như tâm trạng con người như chùng xuống, tĩnh tại:
 “Ngổn ngang gò đống kéo lên,
 Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.”
- Hình ảnh “ngổn ngang gò đống”, “tro tiền giấy bay” gợi không gian tĩnh lặng, lạnh lẽo, linh thiêng. Và trong không gian ấy, có sự xuất hiện của những nam thanh, nữ tú đang sửa sang, rắc những thoi vàng vó, đốt tiền giấy hàng mã cho những người đã khuất.
- Gợi truyền thống văn hóa, đạo lí “uống nước nhớ nguồn” tốt đẹp của người Việt. Một lối sống ân nghĩa thủy chung.
Tác giả khéo léo đan xen các từ Hán -Việt gợi không khí lễ hội rộn ràng, tưng bừng, náo nhiệt.
=> Thông qua buổi du xuân của hai chị em Thúy Kiều, có thể khẳng định: Nguyễn Du là người am hiểu, trân trọng và giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
3. Sáu câu thơ cuối: Khung cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về
Thời gian không ngừng chuyển động, mọi cuộc vui đã đến hồi kết thúc, hai chị em Kiều trở về trên một nền chiều xuân thật đẹp, thanh khiết song đã nhuốm màu tâm trạng:
 “Tà tà bóng ngả về tây,
 Chị em thơ thẩn dang tay ra về.
 Bước lần theo ngọn tiểu khê,
 Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
 Nao nao dòng nước uốn quanh,
 Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”
-Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng: mặt trời từ từ khuất bóng, bước chân thơ thẩn, dòng nước uốn quanh.
-Hình ảnh “tà tà bóng ngả về tây”:
+ Diễn tả cảnh ánh hoàng hôn nhuốm dần xuống cảnh vật và con người, ánh nắng cuối ngày đang tắt dần, không gian đang mờ tối
 +Không khí cũng khác: không còn đông vui, náo nhiệt như lúc lễ hội nữa, tất cả đang nhạt dần, lặng dần. Nhịp thơ 2/2/2 chầm chậm, khoan thai, thể hiện tâm trạng luyến tiếc của nhân vật, không còn cái náo nức, đợi mong bởi lễ hội đã tàn, ngày vui sắp hết. 
-Những từ láy “tà tà”, “’thơ thẩn”, “nao nao”, “thanh thanh” giàu giá trị biểu cảm không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn gợi tả tâm trạng buồn, luyến tiếc của con người. 
 +Từ “thơ thẩn“ có sức gợi lớn, nã kh«ng chØ gîi bưíc ch©n ®i thong th¶, chËm r·i, nã cßn gîi t©m tr¹ng b©ng khu©ng, ng¬ ngÈn tiÕc nuèi, ch©n bưíc ®i mµ t©m tr¹ng cßn vÊn vư¬ng, cßn muèn nÝu kÐo kh«ng khÝ nhén nhÞp cña buæi du xuân.
 + Đặc biệt, từ láy “nao nao” – tính từ chỉ tâm trạng con người được dùng để tả dòng nước trôi có vẻ chậm chạp, lững lờ, ngập ngừng. Tâm trạng của con người dường như đã nhuốm màu lên cảnh vật. Dáng vẻ “nao nao” ấy của dòng nước có lẽ cũng chính là tâm trạng nao nao trong lòng Kiều: luyến tiếc, bâng khuâng, xao xuyến về một cuộc du xuân đã tàn, lễ hội tưng bừng náo nức đã chấm dứt. 
 +Bút pháp tả cảnh ngụ tình được vận dụng thật tài tình. Bởi Nguyễn Du đã từng viết:
 “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”
Dường như có một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan toả trong tâm hồn đa sầu, đa cảm của Thúy Kiều. Nguyễn Du đã thật tài tình khi ông chuyển cảnh, chuyển tâm trạng, dự báo trước về cuộc gặp gỡ của Thúy Kiều đến với nấm mồ hoang lạnh của Đạm Tiên – một kĩ nữ với kiếp đời tài hoa, bạc mệnh. 
 “Sè sè nầm đất bên đàng
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”
Và Kiều sẽ gặp chàng Kim Trọng một thư sinh “Phong tư tài mạo tót vời”, khởi đầu một mối tình đẹp nhưng đầy dở dang tiếc nuối, khởi đầu những ngày tháng bạc mệnh.
→Tả cảnh, tả tình như thế là rất khéo. Chuyển đoạn, chuyển ý như thế là rất tinh. Nguyễn Du bậc thầy tả cảnh là ở đó, thiên tài cũng là ở đó.
═˃ Cảnh vật như có linh hồn, phảng phất một nỗi u buồn và mang một vẻ đẹp riêng: xinh xắn và rất đỗi tao nhã. Đoạn thơ không chỉ hay bởi Nguyễn Du đã sử dụng thành công những biện pháp nghệ thuật, hệ thống từ láy mà còn bởi cái tài tình trong bút pháp cổ điển: tả cảnh ngụ tình.
 III/Tổng kết
-Tóm lại đoạn trích “Cảnh ngày xuân” có bố cục cân đối, hợp lí. Nguyễn Du đã cho thấy một nghệ thuật miêu tả thiên nhiên điêu luyện, sắc sảo. Ông đã sử dụng hệ thống từ ngữ giàu chất tạo hình, giàu sức biểu cảm. Đây là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong “Truyện Kiều”. Đọc đoạn trích, người đọc không chỉ trầm trồ về bức tranh thiên nhiên trong sáng vô ngần mà còn cảm nhận được vẻ đẹp trong một lễ hội truyền thống đầy ý nghĩa của cha ông: tiết Thanh minh. 
-Đồng thời, đoạn trích cũng thể hiện được tài năng của ND trong việc dựng lên một bức tranh tả cảnh ngụ tình đầy tinh tế,... Với những điều đó, “Cảnh ngày xuân” sẽ luôn lắng đọng trong lòng người yêu thơ về một bức tranh xuân đẹp đẽ, tinh khôi, khung cảnh lễ hội mùa xuân rộn ràng, náo nhiệt	 và bức tranh tâm trạng của chị em Thúy Kiều trong buổi hoàng hôn.

File đính kèm:

  • docxon_tap_ngu_van_lop_9_van_ban_canh_ngay_xuan.docx