Ôn tập Ngữ văn Lớp 9 - Tác phẩm: Đồng chí

1.Tác giả

- Chính Hữu là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Ông hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

- Ông làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Thơ ông không nhiều nhưng lại có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. “Đồng chí”là một bài thơ như thế.

- Bài thơ này đã ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời chín năm kháng chiến chống Pháp. Chính bài thơ đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ.

2.Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) của quân và dân ta đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc

3. Vị trí: là bài thơ thành công của Chính Hữu, là tác phẩm tiêu biểu của thơ ca chống Pháp

4. Nhan đề: người có cùng chí hướng lí tưởng. Từ đó có thể khám phá tình cảm thiêng liêng sâu nặng của người lính cách mạng

3. Mạch cảm xúc

- Bài thơ theo thể tự do, gồm hai mươi dòng chia làm ba đoạn. Cả bài thơ tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội, nhưng ở mỗi đoạn sức nặng của tư tưởng và cảm xúc được dẫn dắt để dồn tụ vào những dòng thơ gây ấn tượng sâu đậm (các dòng thứ bảy, mưới bảy và hai mươi).

o Sáu dòng đầu có thể xem là sự lý giải về cơ sở của tình đồng chí. Dòng thứ bảy có cấu trúc đặc biệt (chỉ một từ với dấu chấm than) như một phát hiện, một lời khẳng định sự kết tinh tình cảm giữa những người lính.

o Mười dòng tiếp theo, mạch cảm xúc sau khi dồn tụ ở dòng thứ mười bảy lại tiếp tục khơi mở trong những hình ảnh, chi tiết biểu hiện cụ thể, thấm thía tình đồng chí và sức mạnh của nó.

o Ba dòng thơ cuối được tác giả tách ra thành một đoạn kết, đọng lại và ngân rung với hình ảnh đặc sắc “Đầu súng trăng treo” như là một biểu tượng giàu chất thơ về người lính.

 

docx 69 trang cucpham 02/08/2022 700
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Ôn tập Ngữ văn Lớp 9 - Tác phẩm: Đồng chí", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ôn tập Ngữ văn Lớp 9 - Tác phẩm: Đồng chí

Ôn tập Ngữ văn Lớp 9 - Tác phẩm: Đồng chí
ĐỒNG CHÍ
I/ KIẾN THỨC CƠ BẢN
1.Tác giả
Chính Hữu là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Ông hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. 
Ông làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Thơ ông không nhiều nhưng lại có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. “Đồng chí”là một bài thơ như thế.
Bài thơ này đã ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời chín năm kháng chiến chống Pháp. Chính bài thơ đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ. 
2.Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) của quân và dân ta đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc
3. Vị trí: là bài thơ thành công của Chính Hữu, là tác phẩm tiêu biểu của thơ ca chống Pháp
4. Nhan đề: người có cùng chí hướng lí tưởng. Từ đó có thể khám phá tình cảm thiêng liêng sâu nặng của người lính cách mạng
3. Mạch cảm xúc 
Bài thơ theo thể tự do, gồm hai mươi dòng chia làm ba đoạn. Cả bài thơ tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội, nhưng ở mỗi đoạn sức nặng của tư tưởng và cảm xúc được dẫn dắt để dồn tụ vào những dòng thơ gây ấn tượng sâu đậm (các dòng thứ bảy, mưới bảy và hai mươi). 
Sáu dòng đầu có thể xem là sự lý giải về cơ sở của tình đồng chí. Dòng thứ bảy có cấu trúc đặc biệt (chỉ một từ với dấu chấm than) như một phát hiện, một lời khẳng định sự kết tinh tình cảm giữa những người lính. 
Mười dòng tiếp theo, mạch cảm xúc sau khi dồn tụ ở dòng thứ mười bảy lại tiếp tục khơi mở trong những hình ảnh, chi tiết biểu hiện cụ thể, thấm thía tình đồng chí và sức mạnh của nó.
Ba dòng thơ cuối được tác giả tách ra thành một đoạn kết, đọng lại và ngân rung với hình ảnh đặc sắc “Đầu súng trăng treo” như là một biểu tượng giàu chất thơ về người lính.
II/PHÂN TÍCH
1/Bảy câu đầu là cơ sở hình thành tình đồng chí
Bài thơ mở đầu như lời tâm sự của hai người chiến sĩ :”Quê hương anh nước mặn, đồng chuaTự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Ở đây, “anh” ra đi từ vùng “nước mặn, đồng chua”- vùng đất ven biển, nhiễm phèn khó trồng trọt. 
Còn “tôi” đến từ miền trung du đất cằn cỗi, xác xơ “đất cày lên sỏi đá”.
Tuy hai miền đất xa nhau, “đôi người xa lạ” nhưng cùng giống nhau ở cái nghèo và cùng về đây tập hợp lại trong đội quân cách mạng. 
Bằng ngôn ngữ bình dị, vận dụng thành ngữ dân gian cùng nghệ thuật sóng đôi, Chính Hữu đã đưa ra hình ảnh rất cụ thể mà có ý nghĩa khái quát về hoàn cảnh xuất thân của những người lính cụ Hồ thời chống Pháp. Chính sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân này đã tạo cơ sở ban đầu để hình thành tình đồng chí.
Tình cảm giữa những người chiến sĩ càng gắn bó hơn khi họ: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
Trong câu thơ này, nếu như “súng bên súng” nói về chung kẻ thù, chung nhiệm vụ, chung một trận tuyến thì “đầu sát bên đầu” còn là chung về tâm tư, chung tình cảm, chung một lí tưởng.
Đây là hai hình ảnh cụ thể được hoán dụ, lại sắp xếp theo kiểu sóng đôi, kết hợp với phép đối và điệp ngữ (súng, đầu, bên). Tất cả tạo nên âm điệu chắc khoẻ, nhấn mạnh sự gắn kết, sát cánh bên nhau của những người lính khi họ cùng chung lí tưởng, chung nhiệm vụ, chung một chiến hào.
Tình đồng chí còn được nảy nở và trở nên bền chặt trong sự chan hoà và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui của cuộc đời lính: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.
Câu thơ cho thấy cái khó khăn, thiếu thốn mà người lính hằng đêm phải đối mặt: đêm rét, chăn không đủ đắp phải “chung chăn”
 Nhưng chính trong những gian khổ ấy, giữa họ đã nảy nở sự gắn bó, cảm thông chia sẻ nỗi lòng của nhau để từ đó trở thành “đôi tri kỉ”.
Và, như một phép màu, sự đồng cảnh, đồng cảm, đồng tâm tư, đồng nhiệm vụ đã hóa thành “Đồng chí!” 
Đây là câu thơ rất đặc biệt, độc đáo: Bởi nó chỉ là một từ ghép có hai tiếng “Đồng chí” và dấu chấm cảm, nó nhắc lại nhan đề.
Nó được coi là linh hồn của bài thơ. Nó như cái bản lề khép mở hai ý thơ. Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định về một tình cảm cách mạng mới mẻ “Đồng chí” sau bao kỉ niệm và thời gian gắn bó.
Tóm lại, với bảy câu tự do, dài ngắn khác nhau, lời thơ giản dị, tác giả đã lí giải cụ thể về cơ sở của tình đồng chí.
2/ Mười câu tiếp là những biểu hiện cảm động của tình đồng chí:
Tình đồng chí, trước hết là sự cảm thông sâu xa nỗi lòng của nhau: “Ruộng nươngra lính”
Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng mình những gì thân thương nhất của quê hương: ruộng nương, gian nhà, giếng nước gốc đa... 
Từ “mặc kệ” vốn chỉ thái độ thơ ở, vô tâm, dửng dưng của con người nhưng ở đây nó là tất cả sự kiên quyết, dứt khoát, mạnh mẽ của người ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, khi mục đích đã lựa chọn. 
Đây cũng là điều Quang Dũng từng phản ánh trong bài “Tây Tiến” : “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, 
hay Nguyễn Đình thi trong bài “Đất nước” : “Người ra đi đầu không ngoảnh lại”. 
Còn Thanh Thảo cũng đã bộc bạch
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình	
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc	
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc”
Phải chăng chính bởi những người biết quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh ấy mà chúng ta mới có độc lập, tự do như hôm nay?
Nhưng đọc kĩ câu thơ ta vẫn cảm thấy thấy tình yêu, sự gắn bó tha thiết của những người lính với quê hương :“Giếng nưóc gốc đa nhớ người ra lính”. 
Câu thơ sử dụng nghệ thuật nhân hóa: giếng nước gốc đa mà biết “nhớ”. Cũng có thể xem đây là một hóan dụ : “giếng nước gốc đa” chỉ quê hương và những người thân nơi hậu phương. 
Cách nói này tế nhị mà sâu sắc vừa gợi được nỗi nhớ của hậu phương với người ra trận, vừa nói được nỗi nhớ của người lính với quê hương.
Làm sao mà họ không nhớ k thương cho được khi đó là tất cả những gì gần gũi, thân thiết nhất. Chính điều này làm cho người chiến sĩ càng vững tin hơn ở con đường phía trước, càng cầm chắc tay súng để chiến đấu, chiến thắng và trở về.
Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính: áo rách, quần vá, chân không giày... “Tôi với anh.chân k giày”.
Đặc biệt họ còn cùng chịu sự hành hạ của những cơn sốt rét - căn bệnh phổ biến của những người lính sống trong hoàn cảnh núi rừng gian khổ. 
Nhưng ngay trong hoàn cảnh đó vẫn sáng lên tinh thần lạc quan của những người lính “Miệng cười buốt giá”- nụ cười bừng lên, sáng lên trong gió rét, trong sương muối, trong gian khổ. 
Họ vẫn kiên cường đạp lên tất cả chông gai, vượt qua mưa bom, bão đạn, chiến thắng mọi vũ khí hiện đại nhất của giặc Pháp, đủ thấy được tinh thần chiến đấu của họ cao đến chừng nào!
Tình đồng chí còn là sự đoàn kết “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. 
Đấy là cái bắt tay thân mật, thắm thiết, siết chặt tình đồng chí keo sơn thấm thía. Cái bắt tay để truyền cho nhau sức mạnh chiến đấu, truyền cho nhau tình thương yêu, động viên nhau vượt qua khó khăn, thử thách khốc liệt của cuộc chiến. Hơi ấm đủ làm xoá đi cái lạnh lẽo của mùa đông, đủ để sưởi ấm lên tình đồng chí, đồng đội. 
Đây là sự cảm thông chia sẻ, là lời động viên, là tất cả tình đồng chí lớn lao và thấm thía. 
Chính tình cảm ấy đã tạo nên sức mạnh sưởi ấm, nâng đỡ những người lính vượt qua thử thách khốc liệt của cuộc chiến.
Đoạn thơ đã khắc hoạ biểu hiện tình đồng chí của những người lính thật cụ thể, gần gũi mà tiêu biểu và thấm thía.
3/Ba câu cuối: Ba câu thơ cuối bài thơ là biểu tượng đẹp nhất, giàu chất thơ nhất về tình đồng chí, đồng đội cao đẹp.
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh rất đặc sắc:Đêm nay rừng hoang sương muối....Đầu súng trăng treo”.
Hai câu đầu: 
Trên cái nền hùng vĩ và khắc nghiệt của thiên nhiên, trong cảnh: “rừng hoang sương muối” nhưng những người lính vẫn đứng cạnh bên nhau, im lặng phục kích chờ giặc tới.
Từ “chờ” khắc họa được tư thế chủ động, sẵn sàng chiến đấu của họ.
Mặt khác, hai từ “cạnh bên” đi liền với nhau đã nhấn mạnh sự kề vai sát cánh của những người lính làm mờ đi cái gian khổ ác liệt của cuộc chiến, tạo nên tư thế vững chắc trước quân thù. 
Câu cuối: Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là hình ảnh độc đáo, bất ngờ, là điểm sáng của toàn bài thơ. 
Đây là hình ảnh có thật trong cảm giác, được nhận ra từ những đêm hành quân, phục kích chờ giặc. Những lúc ấy, nhìn trăng treo trên nền trời mà ngỡ là trăng treo trên đầu súng.
Hình ảnh này gợi bao liên tưởng phong phú: súng là hình ảnh của chiến tranh, trăng là hình ảnh của cuộc sống thanh bình. “Súng” và “trăng” là gần và xa, là chiến sĩ và thi sĩ, là thực tại và mơ mộng .
Sự hòa quyện giữ súng và trăng đã toát lên vẻ đẹp lãng mạn trong tâm hồn người lính. Lãng mạng nhưng không thoát li, không quên được nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Lãng mạn vì con người cần có những phút sống cho riêng mình. Trước cái đẹp mà con người trở nên thờ ơ lãnh đạm thì cuộc sống này sẽ tẻ nhạt biết bao! Bởi thế, phải là một người có tâm hồn giàu lãng mạn và một phong thái ung dung bình tĩnh lạc quan thì tác giả mới có thể nhìn thấy một hình ảnh nên thơ như thế.
 Chút nữa đây không biết ai sống chết, chút nữa đây cũng có thể là giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng ta vẫn “mặc kệ”, vẫn say sưa với ánh trăng. Ánh trăng như xua tan cái lạnh giá của đêm sương muối, trăng tỏa sáng làm ngời ngời lòng người, trăng như cùng tham gia, cùng chứng kiến cho tình đồng chí đồng đội thiêng liêng của những người lính. Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội tâm hồn họ thanh cao hơn, trong sạch hơn, trăng cũng là bạn, là đồng chí của anh bộ đội Cụ Hồ.	
Với hình ảnh “Đầu súng trăng treo” xuất hiện ở kết bài thơ này, hình như tác giả còn khẳng định ý nghĩa cao cả của cuộc chiến đấu mà những người lính tham gia: họ cầm súng là để bảo vệ sự bình yên cho đất nước, bảo vệ vầng trăng hòa bình.
 Tóm lại, chỉ bằng ba câu thơ thôi nhưng tác giả đã phác họa nên một bức tượng đài sừng sững về người lính– biểu tượng đẹp đẽ giàu chất thơ về tình đồng chí, đồng đội. 
III/ Tổn ... à, có gia tài lớn, khi có tình yêu, khi thăng tiến, khi có công danh sự nghiệp. 
Còn anh thanh niên lại hp khi được đóng góp một phần sức mình cho đất nước. Niềm hp ấy của anh thật giản dị và cảm động biết bao bởi vì anh được làm người có ích cho xã hội.
Thế mới biết anh đã nhận thức được ý nghĩa của công việc mình làm. Công việc đối với anh là quan trọng nhất. Nó là nguồn sống, nguồn hạnh phúc, là cái đích anh vươn tới bấy lâu nay.
Qua suy nghĩ của anh về công việc và cuộc sống ta thấy ngời lên một có người có lý tưởng sống cao đẹp, có ý thức trách nhiệm với Tổ quốc.
*.Lối sống: Để cho c/s có ý nghĩa hơn, anh thanh niên còn tìm thấy niềm vui trong việc đọc sách, tự học, trồng hoa, nuôi gà
Ngoài những giờ làm việc, anh thanh niên còn đọc sách. 
Sách đã trở thành người bạn thân thiết của anh. Vì thế, khi bác lái xe đưa gói sách cho anh, anh “mừng quýnh” như cầm được vàng. Anh nói với cô gái: “ Cô thấy đấy, lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là sách ấy mà.”.
Sách không chỉ giúp anh nâng cao hiểu biết, nâng cao kiến thức, mà còn giúp anh khuây khoả trong những phút giây rảnh rỗi, cô đơn. 
Chính sách vở cho anh thấy cuộc đời đẹp hơn, c/s không tẻ nhạt.
Anh quả là một trí thức sống có văn hóa, có tâm hồn.	
Thông thường trong hoàn cảnh sống như anh, người ta rất dễ sống buông thả. Chính ông họa sĩ cũng có cái ý nghĩ “khách tới bất ngờ chắc cu cậu chưa kịp quét dọn, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn.” 
Nhưng ngược lại, nơi anh ở không hề bừa bộn mà sạch sẽ, ngăn nắp và với một chiếc giường con, một giá sách và một chiếc bàn học.
Anh có cả một vườn hoa rực rỡ hương sắc, có cả một đàn gà đẻ trứng ăn không hết.
Qua đây ta thấy anh thanh niên không chỉ là người có trách nhiệm với Tổ quốc, với công việc mà còn có trách nhiệm với cuộc sống của chính mình. 
*.Thái độ với mọi người 
Ở người thanh niên ấy còn có một phong cách sống rất đẹp!
Khi gặp được bác tài, anh mừng lắm. Anh càng mừng hơn khi được tiếp bác tài, nhà hoạ sĩ, và cô kỹ sư nông nghiệp trẻ mới ra trường tại nơi làm việc của mình. Chính anh đã nói to lên đầy tiếc rẻ : « Trời ơi, chỉ còn năm phút ». Câu chuyện của anh tuôn ra như suối khi gặp mọi người. 
Khi biết vợ bác lái xe ốm anh đã chu đáo đi tìm được củ tam thất và ân cần trao biếu bác lái xe mang về cho bác gái. Chi tiết này rất nhỏ thôi nhưng nếu không phải là người tinh tế, biết quan tâm đến người khác thì anh thanh niên không thể làm như thế!
Khi ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ bước lên thăm nơi ở và làm việc của anh, anh niềm nở mời họ uống nước chè, anh đã vào khu vườn của mình, cắt một bó hoa rõ to tặng cô gái với những lời chân thành: “cô muốn lấy bao nhiêu nữa tùy ý, có thể cắt hết nếu cô thích”. 
Khi họ ra về, anh còn biếu ông họa sĩ một làn trứng, tặng cô gái một bó hoa to. Chao ôi, ai lại không hả lòng hả dạ trước những cử chỉ thân thiện như thế! 
Tất cả những chi tiết đó, chứng tỏ anh là một người vô cùng cởi mở, chân thành với khách, khao khát được gặp gỡ, được trò chuyện với mọi người.
Thái độ vui vẻ, niềm nở, hiều khách của anh không chỉ vì một niềm vui của chính mình mà vì thực lòng yêu mến và quý trọng con người. Vì thế anh đã để lại trong lòng mọi người những ấn tượng khó quên! 
Tuy làm việc có ích và lớn lao cho đất nước nhưng anh rất khiêm tốn.
Điều này được thể hiện rất rõ trong cuộc gặp gỡ ba mươi phút, anh chỉ dành 5 phút ngắn ngủi để kể về công việc của anh. Thời gian còn lại anh mong được nghe chuyện của mọi người.
Vì rất cảm phục anh thanh niên nên ông họa sĩ muốn vẽ anh nhưng anh đã giới thiệu cho ông họa sĩ những người đáng vẽ hơn mình. Đó là ông kĩ sư nông nghiệp ngày đêm vất vả tạo ra những củ su hào to hơn ở vườn rau Sa Pa hay anh cán bộ khí tượng nghiên cứu, thiết lập bản đồ sét. 
Sở dĩ anh không muốn họa sĩ vẽ mình bởi anh cảm thấy công việc và những đóng góp của mình là nhỏ bé so với những người khác. 
Sự khiêm tốn ấy ở anh làm mọi người vô cùng cảm phục. Qua đây ta còn hiểu được giá trị của sự hi sinh thầm lặng, cái nghĩa tình của những con người ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước.
*.Nhận xét chung
Hình tượng anh thanh niên chỉ thoáng qua như một “bức chân dung” nhưng cũng đủ khiến cho người đọc trân trọng ngưỡng mộ và quý mến anh. Qua nhân vật anh thanh niên, tác giả đã giúp ta hiểu thêm nét đẹp ở những con người lao động mới ở chốn Sa Pa.
Đó là hình ảnh những con người lao động mới với phong cách sống đẹp, suy nghĩ đẹp, sống có lý tưởng, quên mình vì cuộc sống chung; say mê, miệt mài, khẩn trương làm việc; vô tư cống hiến hết mình cho đất nước.
Cuộc sống của họ âm thầm, bình dị mà cao đẹp biết bao! Họ cũng là những con người tiêu biểu cho vẻ đẹp của người Việt Nam những năm đầu miền Bắc nước ta vừa sản xuất vừa chống chiến tranh phá hoại của Mỹ. 
Tâm hồn và những việc làm của anh thanh niên trong truyện đã làm chúng ta thêm yêu con người và cuộc sống, đã thôi thúc chúng ta muốn cống hiến, muốn làm gì đó có ích cho xã hội như một nhà thơ đã nói: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.
b.Ông kĩ sư vườn rau 
ngồi rình cách ong lấy mật rồi tự tay thụ phấn cho hàng vạn cây su hào để hạt giống làm ra tốt hơn, su hào miền Bắc to ngọt hơn...
c. Anh cán bộ nghiên cứu sét 
“đã 11 năm không 1 ngày xa cơ quan”, luôn trong “tư thế sẵn sàng, suốt ngày chờ sét” để lập bản đồ tìm ra tài nguyên trong lòng đất.
2. Những con người đi qua Sa Pa
a. Ông hoạ sĩ:
Tuy không dùng cách kể từ ngôi thứ nhất, nhưng hầu như người kể chuyện đã nhập vào cái nhìn và suy nghĩ của ông hoạ sĩ để quan sát và miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến anh thanh niên. Qua ông, tác giả muốn gửi gắm những suy nghĩ về con người, về cuộc sống, về nghệ thuật.
Ngay từ những phút đầu gặp gỡ anh thanh niên, bằng sự từng trải nghề nghiệp và niềm khao khát của người nghệ sĩ đi tìm đối tượng của nghệ thuật, ông đã xúc động và bối rối : “Vì họa sĩ bắt gặp 1 điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, ôi, một nét thôi đủ khẳng định 1 tâm hồn, khơi gợi 1 ý sáng tác...”
Cảm hứng được khơi gợi đã thôi thúc người hoạ sĩ sáng tác. Ông muốn ghi lại hình ảnh anh thanh niên bằng nét bút kí hoạ, nhưng làm sao cho người xem hiểu được anh ta mà không phải hiểu như một ngôi sao xa... (Chao ôi, bắt gặp một con người như anh ta là một cơ hội hạn hữu cho sáng tác, nhưng hoàn thành sáng tác còn là một chặng đường dài...). Ông chấp nhận những thử thách của quá trình sáng tác và để cảm hứng của mình hiện lên trang giấy: “người con trai ấy đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá...”
b. Cô kĩ sư – Cô gái dám rời HN, bỏ lại sau lưng “mối tình nhạt nhẽo” để lên công tác miền Tây Bắc
Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên, những điều anh nói, những chuyện anh kể về những người khác khiến cô “bàng hoàng”
Cô hiểu thêm về c/sống dũng cảm tuyệt đẹp của anh thanh niên, về cái thế giới những con người như anh, và quan trọng hơn là về con đường cô đã lựa chọn, đang đi tới.
Cái “bàng hoàng” đã giúp cô đánh giá đúng hơn mối tình đầu nhạt nhẽo mà cô đã từ bỏ và yên tâm hơn về quyết định đó của mình. 
Đó là sự bừng dậy của những tình cảm lớn lao, cao đẹp khi người ta gặp được ánh sáng đẹp đẽ toả ra từ c/sống, từ tâm hồn của người khác.
Cùng với sự “bàng hoàng” là tình cảm hàm ơn với anh thanh niên, không phải chỉ vì bó hoa to mà anh tặng cô một cách hết sức vô tư, mà còn “vì 1 bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh cho thêm cô”.
c. Bác lái xe
Lời kể của bác đã kích thích sự chú ý của ông hoạ sĩ, cô kĩ sư, khiến họ háo hức chờ đợi sự xuất hiện của anh thanh niên – nhân vật chính của truyện mà theo lời bác là “người cô độc nhất thế gian.”
Qua lời kể của bác, ta còn biết được những nét sơ lược về anh thanh niên và nỗi “thèm người” của anh khi mới lên sống 1 mình trên đỉnh núi cao quanh năm lạnh lẽo, chỉ có cây cỏ và mây mù.
III.Tổng kết
a. Nghệ thuật 
Truyện đã xây dựng được một tình huống truyện tự nhiên, hợp lý
Đó chính là cuộc gặp gỡ tình cờ của anh thanh niên làm việc một mình ở trạm khí tượng với bác lái xe và hai hành khách trên chuyến xe ấy - ông hoạ sĩ và cô kỹ sư lên thăm trong chốt lát nơi ở và nơi làm việc của anh thanh niên.
Tác dụng:
Tình huống gặp gỡ này là cơ hội thuận tiện để tác giả khắc hoạ "bức chân dung" nhân vật chính một cách tự nhiên và tập trung, qua sự quan sát của các nhân vật khác và qua chính lời lẽ, hành động của anh. 
Đồng thời, qua "bức chân dung" (cả cuộc sống và những suy nghĩ) của người thanh niên, qua sự cảm nhận của các nhân vật khác (chủ yếu là ông hoạ sĩ) về anh và những người như anh, tác giả đã làm nổi bật được chủ đề của tác phẩm: "Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kỹ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước".
Các lời đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm sử dụng đúng chỗ góp phần sắc nét tính cách nhân vật
Cách kể truyện tự nhiên, có sự kết hợp hài hòa giữa tự sự, trữ tình với bình luận làm cho câu chuyện có chiều sâu.
Xây dựng nhân vật: Từ nhân vật phụà giới thiệu nhân vật chính. 
Nhân vật không tên: ca ngợi tất cả những con người sống cống hiến như anh thanh niên, ông kĩ sư nông nghiệp...
Nghệ thuật miêu tả giàu chất thơ và hoạ: (chất thơ thể hiện ở cảnh vật, ở tâm hồn, tình cảm của những nhân vật; chất hoạ thể hiện ở những bức tranh phong cảnh điểm xuyết ở phần đầu và cuối tác phẩm)
Sự dồn nén không gian và thời gian nghệ thuật: cuộc gặp gỡ diễn ra chỉ trong 30 phút 
Đủ để anh thanh niên thể hiện những suy nghĩ, tình cảm quan niệm sống.
Đủ để ông hoạ sĩ già định hình rõ hơn chân lí nghệ thuật suốt đời ông kiếm tìm.
Đủ để cô kĩ sư tự tin vào con đường cô đang đi
Đủ cho NTL khắc học thành công chân dung tập thể những con người mới và đề cao 1 quan niệm sống rất đẹp: sống cống hiến lặng lẽ, âm thầm, tự nguyện cho đất nước, nhân dân.
b. Nội dung 
Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” khắc hoạ thành công hình ảnh những người lao động bình thường, mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí tượng ở một mình trên đỉnh núi cao.
Qua đó truyện khẳng định vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa những công việc thầm lặng

File đính kèm:

  • docxon_tap_ngu_van_lop_9_tac_pham_dong_chi.docx