Ôn tập Ngữ văn Lớp 9 - Chuyên đề: Truyện hiện đại

I.Tìm hiểu chung

1, Tác giả - Kim Lân ( 1920 – 2007) tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở huyện Từ Sơn- tỉnh Bắc Ninh.

 - Ông là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông thường viết về nông thôn và người nông dân. Ông viết chân thực, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ- những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Trong tác phẩm của Kim Lân luôn thấp thoáng cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời; thật thà chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa.

 - Tác phẩm chính : Nên vợ nên chồng ( tập truyện ngắn, 1955, con chó xấu xí ( tập truyện ngắn, 1962).

 - Năm 2001; Kim Lân được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

- Phong cách nghệ thuật: Kim Lân có một lối viết rất tự nhiên, chậm rãi, nhẹ nhàng, hóm hỉnh và giàu cảm xúc; cách miêu tả rất gần gũi, chân thực. Đặc biệt ông có biệt tài phân tích tâm lí nhân vật.

2, Văn bản * Hoàn cảnh sáng tác

 Truyện ngắn làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng trên tạp trí văn nghệ năm 1948.

 * Ngôi kể:

- Truyện được kể theo ngôi thứ 3

- Tác dụng: Làm cho câu chuyện trở nên khách quan và tạo cảm giác chân thực cho người đọc.

 * Tóm tắt truyện:

 Truyện kể về ông Hai rất yêu làng, yêu nước. Khi pháp quay trở lại xâm lược, ông phải rời làng đi tản cư nên rất nhớ làng, vì thế ông thường ra phòng thông tin đến nghe tin tức kháng chiến.

 - Ở khu tán cư, ông nghe được tin làng Chợ Dầu là làng Việt gian theo Tây. Ông rất bàng hoàng, xấu hổ, lo lắng sợ tin này loan ra thì người dân làng Dầu ở đây biết sống ra sao. Suốt mấy ngày trời ông chẳng dám đi đâu. Rồi tin này ai cũng biết. Nhà ông và những người dân làng Dầu đều bị xa lánh và khinh bỉ. Trong hoàn cảnh bế tắc, tuyệt vọng đó ông dù yêu làng nhưng vẫn không đồng tình với hành động theo Tây của làng. Ông vẫn quyết giữ trọn lòng trung thành với Cách mạng, với kháng chiến và ông chỉ biết tâm sự điều đó với con trai của mình.

- Cuối cùng, ông chủ tịch xã của làng Chợ Dầu lên khu tản cư để cài chính tín làng Dầu theo Tây. Ông rất vui đi khoe tin với tất cả mọi người. Ông nhủ lòng càng phải yêu làng, yêu nước hơn nữa.

 

docx 33 trang cucpham 01/08/2022 600
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Ôn tập Ngữ văn Lớp 9 - Chuyên đề: Truyện hiện đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ôn tập Ngữ văn Lớp 9 - Chuyên đề: Truyện hiện đại

Ôn tập Ngữ văn Lớp 9 - Chuyên đề: Truyện hiện đại
Chuyên đề : TRUYỆN HIỆN ĐẠI – NGỮ VĂN 9 KÌ 1
LÀNG
I.Tìm hiểu chung
1, Tác giả
- Kim Lân ( 1920 – 2007) tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở huyện Từ Sơn- tỉnh Bắc Ninh.
	- Ông là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông thường viết về nông thôn và người nông dân.. Ông viết chân thực, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ- những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Trong tác phẩm của Kim Lân luôn thấp thoáng cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời; thật thà chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa.
	- Tác phẩm chính : Nên vợ nên chồng ( tập truyện ngắn, 1955, con chó xấu xí ( tập truyện ngắn, 1962).
	- Năm 2001; Kim Lân được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
- Phong cách nghệ thuật: Kim Lân có một lối viết rất tự nhiên, chậm rãi, nhẹ nhàng, hóm hỉnh và giàu cảm xúc; cách miêu tả rất gần gũi, chân thực. Đặc biệt ông có biệt tài phân tích tâm lí nhân vật.
2, Văn bản
* Hoàn cảnh sáng tác
	Truyện ngắn làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng trên tạp trí văn nghệ năm 1948.
* Ngôi kể: 
- Truyện được kể theo ngôi thứ 3
- Tác dụng: Làm cho câu chuyện trở nên khách quan và tạo cảm giác chân thực cho người đọc.
* Tóm tắt truyện:
	Truyện kể về ông Hai rất yêu làng, yêu nước. Khi pháp quay trở lại xâm lược, ông phải rời làng đi tản cư nên rất nhớ làng, vì thế ông thường ra phòng thông tin đến nghe tin tức kháng chiến.
	- Ở khu tán cư, ông nghe được tin làng Chợ Dầu là làng Việt gian theo Tây. Ông rất bàng hoàng, xấu hổ, lo lắng sợ tin này loan ra thì người dân làng Dầu ở đây biết sống ra sao. Suốt mấy ngày trời ông chẳng dám đi đâu. Rồi tin này ai cũng biết. Nhà ông và những người dân làng Dầu đều bị xa lánh và khinh bỉ. Trong hoàn cảnh bế tắc, tuyệt vọng đó ông dù yêu làng nhưng vẫn không đồng tình với hành động theo Tây của làng. Ông vẫn quyết giữ trọn lòng trung thành với Cách mạng, với kháng chiến và ông chỉ biết tâm sự điều đó với con trai của mình.
- Cuối cùng, ông chủ tịch xã của làng Chợ Dầu lên khu tản cư để cài chính tín làng Dầu theo Tây. Ông rất vui đi khoe tin với tất cả mọi người. Ông nhủ lòng càng phải yêu làng, yêu nước hơn nữa.
* Nghệ thuật:
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo: ông Hai rất yêu làng. Lúc nào ông cũng tự hào và khoe về ngôi làng của mình với sự giàu có và tinh thần kháng chiến. Nhưng đột nhiên ông Hai nghe được từ miệng những người tản cư cái tin làng Chợ Dầu quê ông theo giặc: “ Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây”
	Đây là một tình huống đặc biệt gay gắt để bộc lộ sâu sắc tình cảm của ông Hai.
	- Nghệ thuật xây dựng nhân vật; đặt nhân vật vào tình huống căng thẳng kịch tính để bộc lộ chiều sâu tâm trạng. Diễn biến tâm lý nhân vật được miêu tả qua các ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đầy ám ảnh day dứt.
	- Ngôn ngữ kể chuyện: linh hoạt tự nhiên giầu tính khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói của người nông dân, thể hiện thành công cá tính của nhân vật. Có nhiều chi tiết sinh động hơn.
	- Điểm nhìn trần thuật : nhân vật chính, ông Hai kể. Cách trần thuật của tác giả linh hoạt, tự nhiên, có nhiều chi tiết sinh họt.
	- Bố cục truyện chặt chẽ, mạch lạc.
* Nội dung:
Truyện diễn tả chân thực và sinh động tình yêu làng, yêu quê hương, đất nước và tinh thần Cách mạng của nhân vật ông Hai,. Qua đó tác phẩm cho thấy một biểu hiện cụ thể, sinh động về tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
3, Ý nghĩa nhan đề
- Xuyên suốt tác phẩm, nhà văn kể về làng Chợ Dầu nhưng không lấy tên tác phẩm là Làng Chợ Dầu”. Nếu lấy tên tác phẩm là “ Làng Chợ Dầu” thì câu chuyện sẽ trở thành chuyện riêng của một làng cụ thể, ông Hai sẽ trở thành người nông dân cụ thể của làng Chợ Dầu ấy. Như vây, chủ đề, tư tưởng của truyện bị bó hẹp, không mang ý nghĩa khái quát.
- Tác giả đã sử dụng một danh từ chung là “ Làng”, mang ý nghĩa khái quát để đặt tên cho tác phẩm. Đó sẽ là một câu chuyện về những làng quê nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp; ông Hai sẽ trở thành nhân vật biểu tượng cho người nông dân VN yêu làng, yêu nước. Như vậy, chủ đề, tư tưởng, ý nghĩa của truyện được mở rộng.
II, Đọc- hiểu văn bản
1, Tình huống truyện và ý nghĩa của tình huống truyện
Tình huống truyện đặc sắc: Ông Hai nghe tin làng chợ Dầu làm Việt gian theo Tây
+ Tác giả đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống đối nghịch với tình cảm, niềm tự hào: Một con người vốn yêu làng và luôn hãnh diện về nó thì bỗng nghe tin làng tập tề theo giặc
+ Tình huống bất ngờ ấy đã bộc lộ một cách sâu sắc, mạnh mẽ tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến của ông Hai
Ý nghĩa của tình huống chuyện
+ Về mặt kết cấu của truyện: Tình huống này phù hợp với diễn biến của truyện, tô đậm tình yêu làng, yêu nước của người nông dân Việt Nam mà tiêu biểu là nhân vật ông Hai
+ Về mặt nghệ thuật: Tình huống chuyện đã tạo nên một cái thắt núi cho câu chuyện, tạo điều kiện để bộc lộ mạnh mẽ tâm trạng và phẩm chất của nhân vật, góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm
2, Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai:
a, Người nông dân mang tình yêu làng tha thiết
Ông tự hào, hãnh diện về làng và kể nó với niềm say mê, náo nức đến lạ thường:
+ Trước cách mạng tháng tám: Ông khoe con đường làng lát toàn đá xanh, trời mưa đi chẳng lấm chân; ông khoe sinh phần của một vị quan tổng đốc trong làng
+ Khi kháng chiến bùng nổ: Ông khoe về một làng quê đi theo kháng chiến làm cách mạng; ông kể một cách rành rọt những hộ, những ụ, những giao thông hầm hào; ...
Khi buộc ông phải tảm cư, ông Hai đã rất nhớ về làng:
+ Ông thường xuyên chạy sang nhà bác Thứ để kể lể đủ thứ chuyện về làng, để ơi đi cái nỗi nhớ làng
+ Ông kể cho sướng cái miệng, cho vơi cái lòng mà không cần biết người nghe có thích hay không
+ Ông thường xuyên theo dõi tình hình của làng cũng như tình hình chiến sự
Tạo ra một hoàn cảnh đặc biệt, Kim Lân đã thể hiện một cách rất tự nhiên, chân thực tình cảm, niềm tự hào của ông Hai đối với làng chợ Dầu của mình 
b, Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc:
. Ban đầu , ông chết lặng vì đau đớn, tủi hổ như không thể điều khiển được cơ thể của mình: “Có ông lão nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng hẳn đi, tưởng như không thở được”
Cái tin ấy quá bất ngờ và khi trấn tĩnh lại, ông còn cố không tin vào cái tin dữ ấy. Nhưng rồi những người đi tản cư kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên”, “mắt thấy tai nghe”, làm ông không thể không tin
. Sau giây phút ấy, tất cả dường như sụp đổ, tâm trí ông bị ám ảnh, lo lắng, day dứt:
Ông vờ lảng ra chỗ khác, rồi về thẳng nhà. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”
Về đến nhà ông nằm vật ra giường, nhìn lũ con, tủi thân mà “nước mắt ông cứ tràn ra”
Muôn vàn nỗi lo ùa về trông tâm trí ông
+ Ông lo cho số phận của những đứa con rồi sẽ bị khinh bỉ, hắt hủi vì là trẻ con làng Việt gian: “ Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu” 
+ Ông lo cho bao nhiêu người tản cư làng ông sẽ bị khinh, tẩy chay, thù hằn, ghê tởm: “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!... Suốt cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước...”
+ Ông lo cho tương lai của gia đình rồi sẽ đi đâu, về đâu, làm ăn sinh sống ra sao: “Rồi đây biết làm ăn, buôn bán làm sao? Ai người ta chứa”
Một loại những câu hỏi gợi lên tâm trạng khủng hoảng, rối răm, không có lối thoát của ông Hai
Trong trạng thái khủng hoảng, giận dữ ông nắm chặt hai tay mà rít: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để rồi nhục nhã thế này”
Niềm tin bị phảm bội, những mối nghi ngờ bùng lên và giằng xé trong ông: “ông kiểm điểm từng người trong óc”
. Mấy ngày sau đó, ông hoang mang, sợ hãi khi phải đối diện với cuộc sống xung quanh: 
Ông không dám đi đâu, chỉ quẩn quanh ở nhà và nghe ngóng tình hình ngoài: “một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng nói cười xa xa ông cũng chột dạ”
Lúc nào ông cũng nơm nớp, hoang mang, lo sợ tưởng như người ta để ý đến, bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông... là ông lùi ra một góc, nín thít: “Thôi lại chuyện ấy rồi!”
Ông không giám nói chuyện với vợ, hay ông không giám nhìn thẳng vào thực tế phũ phàng đang làm ông đớn đau
. Tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước đã dẫn đến cuộc xung đột nội tâm ở ông Hai.
Ông Hai rơi vào tình trạng khủng hoảng, tuyệt vọng và bế tắc hoàn toàn:
+ Ông thoáng có ý nghĩ “hay là trở về làng” – rồi ông lại gạt bỏ ý nghĩ về làng bởi “làng đã theo Tây, về làng là rời bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ” 
+ Buộc phải lựa chọn một, ông đã tự xác định một cách đau đớn nhưng dứt khoát “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù”
Quyết định của ông Hai đã khẳng định tình yêu nước mạnh mẽ , thiêng liêng, rộng lớn, bao trùm lên tình cảm của làng quê. Điều gì đã khiến ông có sự lựa chọn đó? Phải chăng chính niềm tin vào Đảng, cách mạng, kháng chiến đã hướng ông có sự lựa chọn đó
Nhưng dù đã dứt khoát như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với nơi mà ông đã sinh ra, lớn lên và gắn bó đến gần hết cuộc đời. Bởi vậy, ông muốn được tâm sự, như để phân bua, để minh oan, cởi bỏ nỗi lòng
+ Ông rút hết nỗi lòng vào những lời thủ thỉ, tâm sự với đứa con ngây thơ, bé bỏng 
+ Tình yêu sâu nặng với làng, nếu ông muốn lí trí và trái tom bé bỏng của con phải khắc sâu, ghi nhớ câu: “Nhà ta ở làng chợ Dầu” – nơi chôn rau cắt rốn của bố con ông.
+ Ông nhắc cho con về tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cụ Hồ của bố con ông: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu, trên cổ soi xét cho bố con ông”
+ Ông khẳng định tình cảm sâu nặng, bền vững và rất thiêng liêng ấy: “Cái lòng của bố con ong là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì có bao giờ dám đơn sai”
Dưới hình thức trò chuyện, tâm sự với đứa con, nhưng thực chất là lời tư vấn, để tự minh oan và khẳng định tấm lòng thủy chung cảu mình với làng, kháng chiến, cách mạng; đ ... iên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn với bác lái xe và hai hành khách
Tác dụng: 
+ Để cho nhân vật chính là anh thanh niên xuất hiện một cách tự nhiên, khách quan và không đột ngột
+ Được soi chiếu, đánh giá và cảm nhận một cách khách quan từ những nhân vật khác
+ Các nhân vật trong truyện dần xuất hiện một cách tự nhiên, lặng lẽ đã góp phần làm nổi bật chủ đề, tư tưởng của tác phẩm
Hệ thống nhân vật:
+ Nhân vật chính là anh thanh niên, hiện lên như một bức chân dung. Song chưa được xây dựng thành một tính cách hoàn chỉnh và hầu như chưa có cá tính
+ Các nhân vật trong truyện, từ các nhân vật chính đến các nhân vật phụ đều không có tên riêng, chỉ được gọi tên qua đặc điểm giới tính, nghề nghiệp, tuổi tác (anh thanh niên, bác lái xe, ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ, ông kĩ sư, anh cán bộ,...)
+ Các nhân vật phụ xuất hiện có vai trò làm nổi bật phẩm chất của nhân vật chính 
Hệ thống nhân vật được xây dựng theo dụng ý nghệ thuật của tác giả để thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Họ là những con người vô danh (không tên), ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, giới tính, ở nhiều nơi trên đất nước đang ngày đêm lặng lẽ, say mê trong công việc để cống hiến cho đất nước. Điều đó làm tăng thêm sức khái quát của tác phẩm.
2. Bức tranh thiên nhiên của Sa Pa
-Thiên nhiên Sa Pa hiện lên êm đềm, lãng mạn và thật sống động: “Nắng bất ngờ bắt đầu len tới, đốt cháy rừng cây . Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bằng bạc dưới cái nhìn bao che của cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên những vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe...”
+Sử dụng biện pháp liệt kê để phô bày tất cả những nét riêng, đặc và độc đáo của thiên nhiên Sa Pa. Vẻ đẹp ấy làm say đắm lòng người và như mời gọi con người hãy đến vùng đất này để khám phá, thưởng thức. 
+ Sử dụng biện pháp nhân hóa qua hình ảnh “nắng...đốt cháy rừng cây”, “nắng mạ bạc cả con đèo” gợi không gian như bừng sáng, khiến cảnh vật thêm lung linh, rực rỡ. 
Nghệ thuật nhân hóa “nắng...cháy rừng cây”, “mây bị nắng xua” khiến cho cảnh vật sống động như mang được linh hồn của thiên nhiên Sa Pa.
Tác giả đã khắc họa được một bức tranh tráng lệ, rực rỡ, thơ mộng với những đường nét,hình khối,màu sắc đặc trưng của thiên nhiên Sa Pa. Và đó còn là cái nền để Nguyễn Thành Long tô đậm, khắc sâu vẻ đẹp của con người.
3. Nhân vật anh thanh niên
a. Một người yêu nghề và có tinh thần trách nhiệm trong công việc
- Một người yêu nghề, dám chấp nhận hy sinh:
+Chấp nhận sống và làm việc trong một hoàn cảnh, môi trường đặc biệt:Trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m, quanh năm chỉ có cỏ cây và mây mù lạnh lẽo.
+Coi công việc như một người bạn: “Khi ta làm việc,ta với công việc là đôi,sao gọi là một mình được?.... Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi,cháu buồn chết mất”.
+Tìm thấy những ý nghĩa trong công việc: “báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”.
+Tự hào và hạnh phúc bởi anh không chỉ giúp ích cho lao động mà cả rong chiến đấu: Phát hiện một đám mây khô giúp không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng.
Có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc:
+Làm việc một mình trên đỉnh núi cao,không có ai giám sát song anh vẫn luôn tự giác,tận tụy: Mỗi ngày đều có 4 lần đi “ốp” để báo về nhà,không ngần ngại những đêm mưa tuyết,...
+Tác phong làm việc khoa học,nghiêm túc,đúng giờ giấc và chính xác đến từng phút: Anh đếm từng phút trong cuộc gặp gỡ vì sợ hết ba mươi phút.
+Anh luôn hoàn thành xuất sắc công việc của mình
Anh thanh niên là hiện thân cho những con người lao động mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương,đất nước thêm giàu đẹp.
b. Một người có tinh thần lạc quan và yêu tha thiết cuộc sống
- Anh biết tạo ra niềm vui trong cuộc sống của mình bằng việc trồng đủ các loài hoa rực rỡ để làm đẹp cho ngôi nhà mình ở; nuôi gà,nuôi ong để làm giàu nguồn lương thực cho mình.
- Luôn tự trau rồi bản thân bằng cách đọc qua sách, để nâng cao hiểu biết và chất lượng cuộc sống.
- Không chỉ sắp xếp, tổ chức công việc một cách khoa học, mà ngay trong cuộc sống anh cũng thật gọn gàng,ngăn nắp: Một căn nhà ba gian sạch sẽ khiến ông họa sĩ phải trầm trồ và bất ngờ.
- Tinh thần lạc quan đã là điểm tựa vững bền giúp anh chủ động vượt lên hoàn cảnh còn nhiều khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần và tìm được niềm vui,ý nghĩa của cuộc sống.
c. Một con người chân thành,cởi mở và hiếu khách
- Thể hiện ở nỗi thèm người, muốn được nhìn ngắm,trò truyện với con người. Vì thế, anh đã lấy khúc cây chắn ngang đường để dừng những chuyến xe hiếm hoi.
- Khi gặp được người thì anh mừng đến mức tất cả cuống cuồng như không kiềm được cảm xúc: “anh chạy vụt đi,cũng tất tả như khi đến”, “người con trai nói to những điều đáng lẽ người ta chỉ nghĩ”.
- Anh là một người thân thiện,cởi mở ngay cả với những người mới gặp lần đầu: Niềm nở,hồ hởi không giấu lòng,pha trà,tặng hoa và cả quà ăn đường.
- Trân trọng từng giây từng phút gặp gỡ:Đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu.
-Anh quan tâm, chu đáo đến cả những người tình cờ gặp gỡ và sẵn sàng yêu thương, sẻ chia:Nghe bác lái xe kể về việc vợ mình bị bệnh, anh đã lặng lẽ đi tìm củ tam thất để bác gái ngâm rượu uống.
-Anh thanh niên xứng đáng trở thành biểu tượng cho phẩm chất và con người nơi mảnh đất Sa Pa 
d. Một con người khiêm tốn.
-Công việc của anh đang làm góp một phần quan trọng cho những bước chuyển mình của đất nước:phục vụ sản xuất và phục vụ chiến đấu. Nhưng anh lại cho những đóng góp của mình là vô cùng nhỏ bé so với bao người khác.
-Khi ông họa sĩ xin kí họa chân dung, anh từ chối, e ngại: “Không, không, đừng vẽ cháu! Để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng cho bác vẽ hơn”.
Qua những nét phác họa của Nguyễn Thành Long, anh thanh niên hiện lên thật chân thực, sinh động, đẹp đẽ. Giữa thiên nhiên im lặng, hắt hiu, giữa cái lặng lẽ muôn thuở của Sa Pa đã vang lên những âm thanh trong sáng,những sắc màu lung linh của những con người lao động mới như anh. 
4. Các nhân vật phụ
a. Nhân vật ông họa sĩ
- Tuy không phải là nhân vật chính của truyện, nhưng ông họa sĩ có vị trí quan trọng,mang quan điểm trần thuật của tác giả.Người kể chuyện đã nhập vào cái nhìn và suy nghĩ của nhân vật ông họa sĩ để quan sát,miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của truyện.
- Trước hết,ông là một nghệ sĩ chân chính, nghiêm túc, say mê đi tìm cái đẹp: “Hơn bao nhiêu người khác, ông biết rất rõ
Sự bất lực của nghệ thuật, của hội họa trong cuộc hành trình vĩ đại của cuộc đời ...Đối với chính nhà họa sĩ, vẽ bao giờ cũng là một việc khó, nặng nhọc, gian nan”.
Ngay từ những phút đầu gặp anh thanh niên,anh họa sĩ đã xúc động và bối rối. “Vì họa sĩ đã bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết. Ôi! Một nét thôi cũng đủ định một tâm hồn,khơi gợi một ý sáng tác”. 
Trước chàng trai trẻ đáng yêu,ông họa sĩ bỗng thấy như “nhọc quá” vì những điều người ta suy nghĩ về anh.
Những lời tâm sự anh thanh niên,khiến ông chấp nhận những thử thách của quá trình sáng tác.
Những cảm xúc và suy tư của ông họa sĩ về anh thanh niên và những vấn đề của nghệ thuật,của đời sống được gợi lên từ câu chuyện của anh thanh niên,đã làm cho chân dung nhân vật chính thêm sáng đẹp và tạo được chiều sâu tư tưởng của tác phẩm. 
b, Nhân vật cô kĩ sư
Cô kĩ sư là một hình ảnh đẹp đẽ, biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ: cô vừa tốt nghiệp đã tình nguyện lên miền núi Lai Châu nhận nhiệm vụ.
Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh than niên, được nghe những điều anh tâm sự, chia sẻ về bản thân và những người khác khiến cô “bàng hoàng” 
Cái “bàng hoàng” như một sự va đập giúp cô bừng dậy những tình cảm và suy nghĩ lớn lao, đẹp đẽ: 
+ Cô đánh giá, kiểm điểm đúng hơn mối tình đầu nhạt nhẽo mà cô đã từ bỏ
+ Vững tin và quyết tâm về quyết định cho chuyến ra đi đầu đời của mình.
Từ quý mến, khâm phục cô dần dần thấy biết ơn vô cùng anh thanh niên. Không phải chỉ vì bó hoa to mà anh tặng mà còn vì “một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh cho thêm cô” 
Cuộc gặp gỡ đã khơi lên trong tâm tư cô gái trẻ những tình cảm và những suy nghĩ mới mẻ, cao đẹp về con người, về cuộc sống. Đó là sự đồng cảm về lý tưởng của thế hệ thanh niên Việt Nam thời chống Mĩ. Đồng thời, qua tâm tư, cảm xúc của cô kĩ sư, ta nhận ra vẻ đẹp và sức mạnh của nhân vật anh thanh niên.
c, Nhân vật bác lái xe
Là người xuất hiện từ đầu tác phẩm, bác là người dẫn dắt, giới thiệu một cách sơ lược và kích thích sự chú ý về nhân vật chính của tác phẩm – “Người cô độc nhất thế gian” 
Bác là một người yêu nghề và có trách nhiệm với công việc: Đã có ba mươi năm lái xe và hiểu tường tận Sa Pa 
Là một con người niềm nở và cởi mở: trên khuôn mặt hồ hởi, bác giới thiệu về thiên nhiên và cảnh sắc Sa Pa; chia sẻ với ông họa sĩ và cô kĩ sư về anh thanh niên
Có một tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa 
Bác là cầu nối giữa anh thanh niên với cuộc đời: bác mua sách giúp anh; giới thiệu anh với những người bạn mới; ...
Mặc dù chỉ xuất hiện qua một vài chi tiết của truyện nhưng bác họa sĩ là một phần quan trọng giúp nhân vật anh thanh niên xuất hiện một cách tự nhiên và góp phần dẫn dắt chuyện
d, Những nhân vật được giới thiệu gián tiếp
Đó là những con người làm việc miệt mài, cống hiến thầm lặng: anh bạn trên trạm đỉnh Phan – Xi – Păng caoo 3142 mét; ông kĩ sư vườn rau dưới Sa Pa ngày ngày ngồi im trong vườn xu hào rình xem cách ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa xu hào
Dám hi sinh cả tuổi và hạnh phúc cá nhân: anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét, luôn trong tư thế sẵn sàng chờ sét, “nửa đêm mưa gió, rét buốt, mặc, cứ nghe sét là choáng choàng chạy ra” và mười một năm chưa ngày nào xa cơ quan
=> Trong tác phẩm, những nhân vật này không xuất hiện một cách trực tiếp mà chỉ được giới thiệu gián tiếp qua lời kể của anh thanh niên. Song, họ đã thể hiện được những phảm chất vàng trong tâm hồn, cách sống và góp phần làm sáng tỏ chủ đề, tư tưởng của truyện được mở rộng.

File đính kèm:

  • docxon_tap_ngu_van_lop_9_chuyen_de_truyen_hien_dai.docx