Giáo án dạy thêm Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Nói với con"

1/ Tác giả

- Y Phương là một nhà thơ dân tộc Tày quê ở Cao Bằng.

- Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.

- Thơ cũng giống như tình yêu. Không có sự run rẩy thì không có thơ”.

2/Tác phẩm

a/Hoàn cảnh sáng tác

- 1980, khi con gái ông mới 1 tuổi, kinh tế cả nước còn nhiều khó khăn (vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mĩ, lại phải chiến tranh biên giới pía Nam, pía Bắc; những khó khăn, đói khổ của thời kì bao cấp -> ảnh hưởng đến văn hóa, đạo đức con người) -> chỉ hiểu rõ về những khó khăn, những truyền thống tốt đẹp của gia đình, của dân tộc mình, từ đó thủy chung, tự hào, tự tin, tự lập xây dựng, phát triển quê hương đất nước mới được vững bền. Đó cũng là trách nhiệm của mỗi người dân.

- In trong tập “Thơ Việt Nam (1945-1985)”

o Nhà thơ tâm sự: “Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn Bài thơ là lời tâm sự của tôi vớiđứa con gái đầu lòng. Tâm sự với con, còn là tâm sự với chính mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lí do lớn nhất để bài thơ ra đời chính là lúc tôi dường như không biết lấy gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả, gấp gáp kiếm tìm tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực, vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ bằng văn hóa”.

 Từ hiện thức khó khăn ấy, nhà thơ viết bài thơ này để tâm sự với chính mình, động viên mình, đồng thời để nhắc nhở con cái sau này.

 

docx 8 trang cucpham 02/08/2022 1300
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án dạy thêm Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Nói với con"", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo án dạy thêm Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Nói với con"

Giáo án dạy thêm Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Nói với con"
NÓI VỚI CON – Y Phương
I/KHÁI QUÁT CHUNG 
1/ Tác giả
Y Phương là một nhà thơ dân tộc Tày quê ở Cao Bằng. 
Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.
Thơ cũng giống như tình yêu. Không có sự run rẩy thì không có thơ”.
2/Tác phẩm
a/Hoàn cảnh sáng tác 
1980, khi con gái ông mới 1 tuổi, kinh tế cả nước còn nhiều khó khăn (vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mĩ, lại phải chiến tranh biên giới pía Nam, pía Bắc; những khó khăn, đói khổ của thời kì bao cấp -> ảnh hưởng đến văn hóa, đạo đức con người) -> chỉ hiểu rõ về những khó khăn, những truyền thống tốt đẹp của gia đình, của dân tộc mình, từ đó thủy chung, tự hào, tự tin, tự lập xây dựng, phát triển quê hương đất nước mới được vững bền. Đó cũng là trách nhiệm của mỗi người dân.
In trong tập “Thơ Việt Nam (1945-1985)”
Nhà thơ tâm sự: “Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn Bài thơ là lời tâm sự của tôi vớiđứa con gái đầu lòng. Tâm sự với con, còn là tâm sự với chính mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lí do lớn nhất để bài thơ ra đời chính là lúc tôi dường như không biết lấy gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả, gấp gáp kiếm tìm tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực, vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ bằng văn hóa”.
Từ hiện thức khó khăn ấy, nhà thơ viết bài thơ này để tâm sự với chính mình, động viên mình, đồng thời để nhắc nhở con cái sau này.
b/ Mạch cảm xúc và bố cục
* Mạch cảm xúc
Mượn lời nói với con, Y Phương gợi về cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người, bộc lộ niềm tự hào về sức sống bền bỉ của quê hương mình.
Bài thơ đi từ tình cảm gia đình rồi mở rộng ra là tình cảm quê hương, từ những kỷ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống. 
Cảm xúc, chủ đề của bài thơ được bộc lộ, dẫn dắt một cách tự nhiên, có tầm khái quát nhưng vẫn thấm thía.
*Bố cục
Phần 1: Từ đầu đến “Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”: Nói với con về cội nguồn sinh dưỡng: .
Phần 2: Còn lại: Nói với con về đức tính tốt đẹp của người đồng mình.
Bố cục chặt chẽ, lớp lang, đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra tình cảm quê hương, từ những kỉ niệm gần gũi mà nâng lên thành lẽ sống.
c/Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật.
Nội dung 
Bài thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình. 
Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Nghệ thuật 
Giọng điệu trìu mến, tha thiết
Thể thơ tự do làm cho cảm xúc cụ thể, rõ ràng. 
Nhịp điệu lúc nhẹ nhàng bay bổng, khi khúc chiết rành rọt, lúc mạnh mẽ âm vang 
Ngôn ngữ cụ thể mà giàu khái quát, bao hàm nhiều ý nghĩa, hình ảnh thơ độc đáo.
d/ Giải nghĩa từ
Người đồng mình: người vùng mình, người miền mình. Đây có thể hiểu cụ thể là những người cùng sống trên một miền đất, cùng một quê hương, cùng một dân tộc.
Lờ: một loại dụng cụ dùng để đánh bắt cá, được đan bằng những nan vót tròn.
Ken: làm cho thật kín bằng cách đệm thêm vào những chỗ hở. Người miền núi thường dùng nhiều tấm ván gỗ dựng chắc sát nhau thành vách nhà. Ken ở đây là động từ, được hiểu như đan, cài, kết.
Thung (thung lũng): dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi, núi.
II/ PHÂN TÍCH
1/Khổ 1: Người cha nói với con về tình cảm cội nguồn. 
a/ 4 câu đầu : Khi nói với con về cội nguồn sinh dưỡng, điều đầu tiên người cha muốn nói tới là tình cảm gia đình – cái nôi nuôi dưỡng con trưởng thành
Mở đầu bài thơ tác giả viết : (trích 4 câu đầu)
Bốn câu thơ ngắt nhịp 2/ 3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại: chân phải - chân trái, rồi một bước - hai bước,; rồi lại “tiếng nói - tiếng cười”. tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn quýt.
Bằng những hình ảnh cụ thể, giàu chất thơ kết hợp với nét độc đáo trong tư duy, cách diễn đạt của người miền núi, bốn câu thơ mở ra khung cảnh một gia đình ấm cúng, đầy ắp niềm vui, đầy ắp tiếng nói cười.
Ta có thể tưởng tượng được gương mặt tràn ngập tình yêu thương, ánh mắt long lanh rạng rỡ cùng với vòng tay dang rộng của cha mẹ đưa ra đón đứa con vào lòng.
Nó gợi người đọc hình dung một hình ảnh cụ thể thường gặp trong đời sống hằng ngày: đứa con đang chập chững tập đi, đang bi bô tập nói; lúc thì sà vào lòng mẹ, lúc thì níu lấy tay cha. Cha mẹ vây quanh mừng vui, hân hoan theo mỗi bước chân con. Từng bước đi, từng tiếng nói, từng tiếng cười của con đều được cha mẹ chăm chút, nâng niu, đón nhận. 
Đằng sau lời nói cụ thể đó, tác giả muốn khái quát một điều lớn hơn: con sinh ra trong hạnh phúc tràn đầy, lớn lên bằng tình yêu thương , vỗ về, mong chờ của cha mẹ. 
Đó sẽ là hành trang quý báu trong cuộc đời mà con luôn phải khắc cốt ghi tâm.
b/ 7 câu tiếp : Người cha còn nói với cho con biết: Con còn lớn lên trong cuộc sống lao động, trong tình yêu thương của “người đồng mình” .
Câu thơ “Người đồng mình yêu lắm, con ơi!” vang lên đầy thiết tha và tự hào!“Người đồng mình” - cách nói giản dị, ấm áp- chỉ người vùng mình, miền mình, những người cùng sống chung miền đất, quê hương, cùng dân tộc.
Từ đó, cuộc sống của “người đồng mình” được gợi lên qua những hình ảnh cụ thể mà giàu sức gợi. Đan lờ cài nan hoa/ Vách nhà ken câu hát".	
Đan lờ, đánh cá dưới bàn tay của người đồng mình đã thành nan hoa. Vách nhà không chỉ được ken bằng gỗ mà bằng câu hát.
Các động từ “đan”, “cài”, “ken” vừa diễn tả động tác vừa nói lên tình cảm gắn bó, quấn quýt của con người nơi đây. Họ còn rất yêu lao động, rất tài hoa, khéo léo, biết làm đẹp cho cuộc sống của quê hương.
Còn rừng núi quê hương thì thật thơ mộng và nghĩa tình: “Rừng chotấm lòng”.
Rừng không chỉ cho gỗ, cho măng mà còn cho hoa. Con đường không chỉ cho lối đi mà còn cho những tấm lòng nhân hậu, bao dung.
Cách nói thật mộc mạc giản dị kết hợp với nghệ thuật nhân hóa và điệp từ “cho” đã gợi tả thiên nhiên quê hương như ban tặng cái đẹp tinh túy nhất cho con người, chở che nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống.
Sung sướng ôm con thơ vào lòng, người cha nói với con về ngày cưới của cha mẹ. Đây là kỉ niệm có tính chất khởi đầu cho hạnh phúc gia đình:
Cha mẹ mãi nhớ về ngàycưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Nói với con những điều đó, người cha muốn dạy con tình cảm cội nguồn bằng chính tình yêu và lòng tự hào về gia đình, về quê hương.
Giọng điệu khỏe khoắn, vừa tâm tình, tha thiết vừa chứa chan hi vọng; ngôn ngữ giản dị, hình ảnh mộc mạc mà giàu sức gợi, thể thơ tự do.
2/Khổ2: Người cha nói với con về truyền thống tốt đẹp của quê hương.
Người đồng mình không chỉ là những con người giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao động mà còn là những con người biết lo toan và giàu mơ ước: "Người đồng mình thương lắm con ơi!..../Xa nuôi chí lớn".	
Với cách nói “Người đồng mình thương lắm con ơi!” người cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về những gian truân, thử thách cùng ý chí mà người đồng mình đã trải qua.
Y Phương đã lấy cái cao vời vợi của trời để đo nỗi buồn, lấy cái xa của đất để đo ý chí con người. Đây là cách tư duy độc đáo của người miền núi.
 Việc sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến còn cho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ.	
Người đồng mình dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung, gắn bó với quê hương, cội nguồn: “Sống trên đá không chê đá gập gềnh	..	Không lo cực nhọc”.
Nghèo khổ, gian khó:
Ở đây, phép liệt kê với những hỉnh ảnh ẩn dụ “đá gập gềnh”,“thung nghèo đói” 
thành ngữ “lên thác xuống ghềnh”
cùng những câu thơ dài ngắn, nhiều thanh trắc
đã gợi người đọc hình dung cuộc sống của của quê hương còn nhiều đói nghèo, cực nhọc, còn đầy trắc trở, gian nan. 
Thủy chung, gắn bó:
Nhưng điệp ngữ “sống”, “không chê” và điệp cấu trúc câu, cùng hình ảnh đối xứng đã nhấn mạnh:
người đồng mình có thể vất vả, thiếu thốn về vật chất nhưng họ không thiếu nghị lực và quyết tâm. 
Họ biết chấp nhận và thủy chung, gắn bó cùng quê hương. 
Và phải chăng, chính cuộc sống nhọc nhằn, đầy vất vả ấy đã tôi luyện cho họ chí lớn và tình yêu quê hương đã tạo nên sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả.
 Thêm vào đó, phép so sánh “Sống như sông như suối” còn tô đậm vẻ đẹp tâm hồn của người đồng mình. 
Gian khổ là thế nhưng họ luôn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như đại ngàn. 
Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối, con sông.	
Phẩm chất của người của con người quê hương còn được người cha ca ngợi: “Người đồng mình thô sơ da thịt/ Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”	
Hai câu thơ này có sự tương phản giữa “thô sơ da thịt” - mộc mạc, giản dị, chất phác, thật thà, chịu thương, chịu khó và “chẳng nhỏ bé” ” -> khẳng định sự lớn lao của ý chí, của nghị lực, cốt cách và niềm tin. 
Đây là sự đối lập giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong. Chính điều này đã tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin, không hề nhỏ bé.
Tiếp theo tác giả viết: Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương/Còn quê hương thì làm phong tục.	
Đây là 2 câu thơ tuyệt hay, diễn tả chính xác công việc của người miền núi. Họ thường ở nhà sàn, làm bằng gỗ, họ thường “đục đá” tảng để kê cho cao. 
Nhưng ở đây, tác giả không nói tự đục đá kê cao sàn nhà, mà nói tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục 
 Cách nói độc đáo này còn làm cho lời thơ không chỉ có ý nghĩa tả thực mà còn có ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc.
 Nó khẳng định bằng chính bàn tay, khối óc lao động của mình, người đồng mình đã tự lập, tự lực xây dựng và làm giàu đẹp cho quê hương, làm nên phong tục, bản sắc văn hoá riêng biệt của mình, sánh tầm với các miền quê khác trên dải đất hình chữ S thân yêu.
Câu thơ đã khái quát về tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội, bảo tồn những truyền thống tốt đẹp của người đồng mình.
Từ đó người cha dặn dò con: “Con ơi tuy thô sơ da thịt /Lên đường/ Không bao giờ nhỏ bé được/ Nghe con. 
4 câu này điệp lại hình ảnh “tuy thô sơ da thịt”, “ không bao giờ nhỏ bé”, nhịp thơ nhanh, dòng thơ ngắn, câu thơ như bị xé ra.
Qua đây, người cha muốn nhắn nhủ dù con đường phía trước còn nhiều chông gai, nhưng khi lên đường con hãy tự tin bước đi, bởi sau lưng con có gia đình, quê hương, bởi trong tim con ẩn chứa sẵn những phẩm chất quý báu của “người đồng mình”. 
Lời dặn của cha nghe sao mà mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời, tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương.
Nhìn lại toàn bài, ta bắt gặp nhiều lời nhắc gọi con vô cùng mà thiết tha: con ơi, đâu con, con ơi. Đặc biệt, hai tiếng “nghe con” khép lại bài thơ mà lắng đọng bao cảm xúc, ẩn chứa tình yêu thương vô bờ bến và niềm tin sâu nặng mà người cha đặt ở nơi con.
Với thể thơ tự do, giọng điệu khỏe khoắn vừa tâm tình tha thiết vừa chứa chan hi vọng cùng những hình ảnh, từ ngữ mộc mạc, cụ thể -> nhà thơ nói với con về những vẻ đẹp của người đồng mình ->để rồi từ đó truyền cho con lòng tự hào và tình yêu về quê hương, dân tộc,->nhắn nhủ con biết sống đẹp, biết vượt qua gian khó bằng niềm tin, ý chí như người đồng mình.	
Đọc bài thơ, hiểu về vẻ đẹp của những con người quê hương, ta yêu hơn, trân trọng hơn những con người làm giàu đẹp quê hương, đất nước.
III/TỔNG KẾT
1.Nghệ thuật 
Giọng điệu trìu mến tha thiết, thể hiện qua lời tâm sự của cha với con, của thế hệ đi trước với thế hệ mai sau.
Thể thơ tự do làm cho cảm xúc cụ thể, rõ ràng. Riêng về thể thơ, Nói với con được viết bằng một thứ thơ không gò bó, độ dài ngắn của từng câu thơ không đều nhau. Thể thơ tự do này thích hợp với phong cách trò chuyện hằng ngày, phù hợp với một lối tư duy bình dị, hồn nhiên không cần dến sự cầu kì, đẽo gọt.
Nhịp điệu lúc nhẹ nhàng bay bổng, khi khúc chiết rành rọt, lúc mạnh mẽ âm vang -> lời khuyên của cha thấm sâu vào con.
Ngôn ngữ cụ thể mà giàu khái quát, bao hàm nhiều ý nghĩa, hình ảnh thơ độc đáo.
Ngoài ra, cũng cần chú ý những biện pháp tu từ, ví dụ điệp từ (trong nhiều trường hợp), biện pháp đối lập nhằm làm nổi bật ý thơ như "Người đồng mình thô sơ da thịt – Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con", ở đây có sự dối lập giữa thể xác và tinh thần. Hoặc hình thức nối tiếp theo kiểu bắc cầu : "Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương – Còn quê hương thì làm phong tục". Những yếu tố về nghệ thuật ấy tự nó bổ sung cho nhau như tấm vái nhiều màu, những chiếc túi thố cẩm xinh xinh, một thứ "túi thơ" của người miền núi.
2.Nội dung	
Bài thơ ca ngợi những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, cha mong con sống có tình nghĩa với quê hương, phải giữ đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của cha ông từ bao đời để lại. Hơn nữa, con phải biết chấp nhận gian khó và vươn lên bằng ý chí của mình.
Người cha muốn con hiểu và cảm thông với cuộc sống khó khăn của quê hương, tự hào về truyền thống quê hương, tự hào về dân tộc để vững bước trên con đường đời, để tự tin trong cuộc sống.
Người cha trong bài thơ của Y Phương đã vun đắp cho con một hành trang quí vào đời. Nếu mẹ là bông hoa cho con cài lên ngực thì cha là cánh chim cho con bay thật xa. Nếu mẹ cho con những lời ngọt ngào yêu thương vỗ về thì cha cho con tinh thần ý chí nghị lực, ước mơ khát vọng, lối sống cao đẹp.
Bài thơ chứa chan ý nghĩa, mộc mạc, đằm thắm mà sâu sắc. Nó tựa như một khúc ca nhẹ nhàng mà âm vang. Lời thơ tâm tình của người cha sẽ là hành trang đi theo con suốt cuộc đời và có lẽ mãi mãi là bài học bổ ích cho các bạn trẻ - bài học về niềm tin, nghị lực, ý chí vươn lên.

File đính kèm:

  • docxgiao_an_day_them_ngu_van_lop_9_van_ban_noi_voi_con.docx