Giáo án dạy thêm Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Kiều ở lầu Ngưng Bích"
Sáu câu thơ đầu : Khung cảnh trước lầu Ngưng Bích và nỗi niềm của Thúy Kiều (trích thơ)
Tình cảnh: Ngay ở câu thơ đầu tác giả đã cho thấy tình cảnh của Kiều: “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”.
o “Khóa xuân” là khóa kín tuổi xuân
o Ở đây ý nói nàng bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài.
o Hình ảnh này gợi tình cảnh đáng thương của Kiều, gợi sự xót xa cho thân phận.
Khung cảnh lầu NB
o Từ trên lầu cao nhìn ra xa, nàng thấy trước mắt là dãy núi mờ xa, trên đầu là một tấm trăng lạnh lẽo, xung quanh là bốn bề bát ngát với cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
o Từ láy “bát ngát” kết hợp với “bốn bề” như tô đậm cái vô cùng, vô tận của không gian.
o Thêm vào đó, nghệ thuật liệt kê “cát vàng, bui hồng” và phép đối “cồn nọ -dặm kia” như mở rộng không gian về nhiều phía.
Tất cả cho thấy nơi đây vô cùng rộng lớn, mênh mông, hoang vắng không hề có một chút bóng dáng sự sống của con người.
Nỗi niềm của Kiều
o Mà không gian càng rợn ngợp bao nhiêu thì Kiều càng cảm thấy cô đơn, lẻ loi bấy nhiêu. Vì thế, từ “xa trông” như miêu tả cái nhìn xa xăm của Kiều, nàng đang cố gắng kiếm tìm một chút bóng dáng, sự sống xung quanh. Nhưng tuyệt nhiên chỉ là một không gian vắng lặng, k một bóng người.
o Nỗi niềm của Kiều được diễn tả rất cụ thể trong câu thơ “Bẽ bàng mây sớm đèn khuya/ Nửa tình nửa cảnh như chi tấm lòng”.
Ở đây, tính từ, từ láy “bẽ bàng” gợi lên sự xấu hổ và tủi thẹn của Kiều khi nghĩ đến thân phận của mình.
Làm sao mà Kiều không “bẽ bàng” khi cuộc đời của nàng đang êm đềm hạnh phúc là thế, nào là gia đình cha mẹ chị em sum họp đông vui, nào là chàng Kim-người đã cho nàng một tình yêu say đắm. Vậy mà nay nàng phải cốt nhục chia lìa, tình yêu tan vỡ, nhân phẩm bị chà đạp.
Đã thế nàng lại bị giam lỏng ở lầu NB, phải sống một thân một mình vò võ trên lầu vắng, chỉ biết làm bạn với áng mây buổi sớm, ngọn đèn canh khuya “mây sớm đèn khuya”.Sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều chỉ thui thủi một mình, dồn tới nàng là lớp lớp những nỗi niềm chua xót, đau thương khiến tấm lòng như bị chia xé: “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Cảnh có đẹp đến bao nhiêu đi chăng nữa cũng không thể nào khỏa lấp đi tâm trạng “bẽ bàng” của nàng.
Có thể nói bức tranh tr¬ước lầu Ng¬ưng Bích không còn đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà là bức tranh "tâm cảnh" . Trong cảnh có tình, trong tình có cảnh. Cảnh tình như hòa hợp làm một. Trong giờ phút mà bên ngoài tưởng như yên tĩnh này thì chính trong lòng nàng Kiều đang ngổn ngang trăm nỗi. Đó chính là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã được tác giả sử dụng thật tài tình. Chính Nguyễn Du đã từng nói:"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,/ Ng¬ười buồn cảnh có vui đâu bao giờ?".
Tóm lại, bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết với với nghệ thuật đối, ước lệ, từ láy, tác giả đã khắc họa thành công hoàn cảnh của Kiều khi ở lầu NB và nỗi cô đơn, tủi hổ, chán ngán của nàng.
Qua đó tác giả bộc lộ thái độ đồng cảm, yêu thương sâu sắc.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo án dạy thêm Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Kiều ở lầu Ngưng Bích"
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH (Trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du) I/ KHÁI QUÁT CHUNG 1/Tác giả-tác phẩm 2/ Vị trí đoạn trích Đoạn trích nằm ở phần thứ hai :Gia biến và lưu lạc. Gia đình gặp tai biến, Kiều phải bán mình cứu cha và em. Tưởng là bán mình làm vợ lẽ, không ngờ bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục và đưa về lầu xanh, lại còn bị Tú Bà mắng nhiếc, đánh đập. Kiều nhất quyết không chịu tiếp khách làng chơi, không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, phẫn uất, tủi nhục, nàng định tự vẫn. Tú bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ đưa Kiều ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để chuẩn bị một âm mưu đê tiện hơn. 3/ Bố cục: 3 phần Sáu câu thơ đầu: hoàn cảnh cô đơn của Kiều ở lầu Ngưng Bích. Tám câu thơ tiếp theo: Kiều thương nhớ Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ Tám câu thơ cuối: cảnh được cảm nhận qua tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều. II/ PHÂN TÍCH 1/ Sáu câu thơ đầu : Khung cảnh trước lầu Ngưng Bích và nỗi niềm của Thúy Kiều (trích thơ) Tình cảnh: Ngay ở câu thơ đầu tác giả đã cho thấy tình cảnh của Kiều: “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”. “Khóa xuân” là khóa kín tuổi xuân Ở đây ý nói nàng bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Hình ảnh này gợi tình cảnh đáng thương của Kiều, gợi sự xót xa cho thân phận. Khung cảnh lầu NB Từ trên lầu cao nhìn ra xa, nàng thấy trước mắt là dãy núi mờ xa, trên đầu là một tấm trăng lạnh lẽo, xung quanh là bốn bề bát ngát với cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Từ láy “bát ngát” kết hợp với “bốn bề” như tô đậm cái vô cùng, vô tận của không gian. Thêm vào đó, nghệ thuật liệt kê “cát vàng, bui hồng” và phép đối “cồn nọ -dặm kia” như mở rộng không gian về nhiều phía. Tất cả cho thấy nơi đây vô cùng rộng lớn, mênh mông, hoang vắng không hề có một chút bóng dáng sự sống của con người. Nỗi niềm của Kiều Mà không gian càng rợn ngợp bao nhiêu thì Kiều càng cảm thấy cô đơn, lẻ loi bấy nhiêu. Vì thế, từ “xa trông” như miêu tả cái nhìn xa xăm của Kiều, nàng đang cố gắng kiếm tìm một chút bóng dáng, sự sống xung quanh. Nhưng tuyệt nhiên chỉ là một không gian vắng lặng, k một bóng người. Nỗi niềm của Kiều được diễn tả rất cụ thể trong câu thơ “Bẽ bàng mây sớm đèn khuya/ Nửa tình nửa cảnh như chi tấm lòng”. Ở đây, tính từ, từ láy “bẽ bàng” gợi lên sự xấu hổ và tủi thẹn của Kiều khi nghĩ đến thân phận của mình. Làm sao mà Kiều không “bẽ bàng” khi cuộc đời của nàng đang êm đềm hạnh phúc là thế, nào là gia đình cha mẹ chị em sum họp đông vui, nào là chàng Kim-người đã cho nàng một tình yêu say đắm. Vậy mà nay nàng phải cốt nhục chia lìa, tình yêu tan vỡ, nhân phẩm bị chà đạp. Đã thế nàng lại bị giam lỏng ở lầu NB, phải sống một thân một mình vò võ trên lầu vắng, chỉ biết làm bạn với áng mây buổi sớm, ngọn đèn canh khuya “mây sớm đèn khuya”.Sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều chỉ thui thủi một mình, dồn tới nàng là lớp lớp những nỗi niềm chua xót, đau thương khiến tấm lòng như bị chia xé: “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Cảnh có đẹp đến bao nhiêu đi chăng nữa cũng không thể nào khỏa lấp đi tâm trạng “bẽ bàng” của nàng. Có thể nói bức tranh trước lầu Ngưng Bích không còn đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà là bức tranh "tâm cảnh" . Trong cảnh có tình, trong tình có cảnh. Cảnh tình như hòa hợp làm một. Trong giờ phút mà bên ngoài tưởng như yên tĩnh này thì chính trong lòng nàng Kiều đang ngổn ngang trăm nỗi. Đó chính là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã được tác giả sử dụng thật tài tình. Chính Nguyễn Du đã từng nói:"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?". Tóm lại, bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết với với nghệ thuật đối, ước lệ, từ láy, tác giả đã khắc họa thành công hoàn cảnh của Kiều khi ở lầu NB và nỗi cô đơn, tủi hổ, chán ngán của nàng. Qua đó tác giả bộc lộ thái độ đồng cảm, yêu thương sâu sắc. 2/ Tám câu tiếp: Kiều thương nhớ người yêu và nhớ về cha mẹ. Trước hết, Kiều nhớ về người yêu “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng. Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.” Để diễn tả nỗi nhớ của Kiều dành cho chàng Kim, tác giả đã dùng động từ “tưởng”. “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. “Tưởng” là vừa nhớ vừa hình dung ra, tưởng tượng ra người mình yêu. Kiều nhớ đến khi hai người cùng uống chén rượu thủy chung, hứa sẽ bên nhau trọn đời dưới đêm trăng sáng vằng vặc . “Vầng trăng vằng vặc giữa trời Đinh ninh hai miệng một lời song song.” Thúy Kiều xót xa tưởng tượng thấy, ở nơi xa kia, người yêu vẫn chưa biết mình phải bán mình, chưa biết mình đã rơi vào lầu xanh vẫn ngày đêm ngóng đợi tin tức của nàng: “Tin sương luống những rày trông mai chờ”. Càng nhớ về kỉ niệm, Kiều lại cành đau đớn, xót xa .Chén rượu thề còn đó mà nay mỗi người một ngả. Nàng lại càng thấm thía nỗi cô đơn của mình. Nàng liên tưởng đến thân phận “bên trời góc bể bơ vơ” của mình. Kiều băn khoăn tự hỏi: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”:Câu thơ này có hai cách hiểu: Cách hiểu thứ nhất: Đây như một lời khẳng định về tấm lòng son sắt, thủy chung của Kiều đối với Kim Trọng dù trên bước đường đời có phải trải qua bao sóng gió thì tấm lòng son ấy mãi vẹn nguyên. Cách hiểu thứ hai: câu thơ như một lời tự vấn lương tâm của Kiều, Kiều cho rằng tấm lòng son sắt của mình với Kim Trọng đã bị hoen ố, đã bị dập vùi khi Kiều đã thất thân với Mã Giám Sinh nên không biết bao giờ mới gột rửa cho sạch được vết nhơ nhuốc ấy. Như vậy, trong nỗi nhớ chàng Kim, Thúy Kiều không chỉ bộc lộ nỗi niềm mong ngóng khắc khoải mà còn bộc lộ cả nỗi đau đớn vò xé tâm can.. Qua đó cho thấy được tấm lòng thủy chung, son sắt của Kiều dành cho Kim Trọng. Tiếp theo, Kiều nhớ đến cha mẹ “Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa Có khi gốc tử đã vừa người ôm” Nếu như khi diễn tả nỗi nhớ chàng Kim của Kiều, Nguyễn Du dùng động từ "tưởng" thì khi diễn tả tấm lòng hiếu lễ với cha mẹ của Kiều, tác giả lại sử dụng tính từ “xót”. “Xót” nghĩa là thương, thương đến mức xót xa trong lòng. Không xót xa sao được khi một đứa con hiếu thảo như Kiều lại cứ nghĩ đến hình ảnh cha mẹ đang tựa cửa ngóng chờ con trở về, còn con thì vẫn bóng chim tăm cá, không thấy đâu Nàng nhớ thương da diết và vô cùng day dứt vì không thể phụng dưỡng song thân. Từ khi xa nhà đến nay mới đó mà Kiều tưởng như “Sân Lai cách mấy nắng mưa”, cảnh quê nhà đổi thay nhiều, “gốc tử” đã lớn “vừa người ôm”, cha mẹ ngày một thêm già yếu. Càng nghĩ Kiều càng thêm lo lắng cho cha mẹ. Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, những điển cố “Sân Lai”, “gốc tử” đã diễn tả tấm lòng hiếu thảo và nỗi nhớ thương của Thúy Kiều dành cho cha mẹ rất là lớn lao, cao cả và thiêng liêng. Tóm lại, bằng hình thức ngôn ngữ độc thoại nội tâm, hình ảnh ước lệ, thành ngữ, điển cố tác giả đã khắc hoạ thành công nỗi nhớ của nàng với người thân. Nỗi nhớ thương ấy của Kiều đã nói lên nhân cách đáng trân trọng của nàng. Hoàn cảnh của Kiều lúc này thật xót xa, đau đớn nhưng nàng đã quên đi để hướng yêu thương vào những người thân yêu nhất. Trái tim nàng thật rộng lớn, giàu đức hi sinh. Nàng thật sự là một người tình thủy chung, một người con hiếu thảo, một người có tấm lòng vị tha đáng quý. Qua đây, tác giả thể hiện thái độ trân trọng trước vẻ đẹp về nhân cách của Kiều. Khi nhớ về người thân, lẽ ra là người con có hiếu, trước hết Kiều phải nhớ đến cha mẹ. Nhưng ở đây Kiều lại nhớ Kim Trọng. Mới đọc ta thấy vô lí, nhưng đặt trong cảnh ngộ Kiều lúc đó thì lại rất có lí. Đây là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Bởi: Khi gia đình gặp biến cố, Kiều đã hi sinh bản thân để cứu cha và em, Kiều đã phần nào “đền ơn sinh thành” cho cha mẹ. Nhưng còn với Kim Trọng, nàng đang có một mối tình đầu đẹp đẽ, cả hai cùng thề nguyền dưới trăng mà giờ đây nàng lại bị sa cơ lỡ bước. Vì thế Kiều luôn canh cánh bên mình vì cảm thấy đã phụ tình chàng Kim khi không giữ được lời hẹn ước. Nỗi đau ấy cứ vò xé tâm can Kiều khiến Kiều luôn nghĩ đến Kim Trọng. Bởi vậy Kiều nhớ Kim Trọng trước cha mẹ cũng là điều dễ hiểu. Có thể nói ở đoạn này, Nguyễn Du đã miêu tả khách quan tâm trạng nhớ thương của Thúy Kiều vượt qua những định kiến của tư tưởng phong kiến: đặt chữ tình trước chữ hiếu. Qua đó, người đọc thấy được sự tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Du, thấy được sự cảm thông, yêu thương, trân trọng sâu sắc của một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. 3/ Tám câu còn lại: Cảnh được cảm nhận qua tâm trạng đau buồn, lo âu của Thúy Kiều. Buồn biết bao khi phải dấn thân vào nơi vô định! Buồn biết bao khi phải mãi mãi xa cách người yêu! Buồn biết bao khi có cha, mẹ mà không được phụng dưỡng sớm hôm! Những nỗi buồn đó đang thức dậy trong lòng Thuý Kiều - một thiếu nữ sắc, tài vẹn toàn, đa tình, đa cảm. Một nỗi buồn mênh mông như đè nặng, bao quanh lấy nàng. Nhìn vào đâu nàng cũng thấy buồn, cảnh vật dù có đổi thay nhưng nỗi buồn của nàng thì như cố định. Kiều ngồi trên lầu NB, bốn bề mênh mông, vắng lặng. Cảnh ấy dội vào lòng Kiều khiến nàng nghĩ về thân phận của mình, nỗi buồn càng ngày thấm thía. Vì thế mà mỗi hình ảnh thiên nhiên ở tám câu cuối là một ẩn dụ về tâm trạng con người. Trước hết là cánh buồm “thấp thoáng” lúc ẩn lúc hiện nơi của bể chiều hôm gợi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết của Kiều. Đại từ phiếm chỉ ”ai” làm câu thơ càng khắc khải nỗi niềm hoài vọng trông ngóng. “Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?” Còn cánh hoa rơi bị cuốn theo dòng nước lại gợi thân phận trôi nổi, lênh đênh, không biết đi đâu về đâu của Kiều. “Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu?” Nội cỏ rầu rầu giữa chân mây mặt đất gợi tâm trạng bi thương về một tương lai mù mịt. “Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh” Cuối cùng là hình ảnh thiên nhiên dữ dội với ”gió cuốn mặt duềnh”, ”ầm ầm tiếng sóng” “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” Cảnh trong hai câu thơ này là giông bão, là sóng gió. Không phải gió thổi, gió lướt mà là “gió cuốn” hung bạo dữ dằn. Không phải sóng xô, sóng vỗ mà là “sóng kêu” ầm ầm, dữ dội. Âm thanh bây giờ mới xuất hiện nhưng đe dọa, thét gào. “Tiếng sóng kêu” ấy có thể là sóng biển được nhân hóa, có thể là sóng lòng, sóng đời – lớp sóng của buồn đau, hãi hùng, lo sợ. Gió và sóng xô ầm ầm, ào ạt quanh nơi ghế ngồi cảm giác như tai họa đang rình rập, đổ ập xuống đời Kiều. Để khắc họa tâm trạng của Kiều, tám câu thơ này có đến bốn lần tác giả sử dụng điệp ngữ “buồn trông” (buồn nhìn xa, trông ngóng một cái gì đó mơ hồ, vô vọng.). Nó được đặt ở đầu các câu sáu chữ kết hợp với các hình ảnh (biển, thuyền, ngọn nước, hoa trôi, nội cỏ, chân mây mặt đất, gió, tiếng sóng) đứng sau đó diễn tả nỗi buồn dằng dặc, dai dẳng tưởng như không bao giờ kết thúc, với nhiều cấp độ khác nhau. Đoạn thơ còn sử dụng hai câu hỏi tu từ (“Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”/ “Hoa trôi man mác biết là về đâu”) và các từ láy, chủ yếu là những từ láy tượng hình dồn dập (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh), chỉ có một từ láy tượng thanh ở câu cuối (ầm ầm), tạo nên nhịp điệu, diễn tả nỗi buồn ngày càng dâng lên lớp lớp. Đoạn thơ này được coi là kiểu mẫu cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình (mượn cảnh để tả tình) của văn chương cổ. Đây là một bút pháp nghệ thuật mà khi tả cảnh, nhà thơ không nhằm hướng người đọc cảm nhận cái đẹp của cảnh như nó đang có mà đích cuối cùng muốn đạt được chính là tình. Cảnh chỉ là cái phông, cái nền cho tình biểu đạt. Cảnh vật bao giờ cũng bao hàm một nỗi niềm tâm sự của nhân vật trong đó. Điều này khiến cho cảnh vật trở nên linh hoạt như có một tâm hồn hay một nỗi xúc cảm riêng tư nào đó. Chính Nguyễn Du đã tự thú nhận sự chủ quan của mình trong lúc tả cảnh qua hai câu thơ:“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Ở đoạn thơ này mỗi cảnh vật gắn liền một nỗi buồn khác nhau. Nỗi buồn ấy càng ngày càng mãnh liệt, da diết như những lớp sóng đang dồn dập, tới tấp, xô đẩy cuộc đời Kiều. Tóm lại, bằng cách kết hợp nhiều biện pháp nghệ thuật, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình; đoạn thơ không chỉ cho người đọc thấy được cảnh đẹp, tình sầu, mà lòng nhà thơ cùng hoà với lòng nhân vật, cùng đồng cảm với nỗi đau tê tái trong tâm hồn và số phận nàng Kiều. Đồng thời, lời thơ còn như dự báo về một chuỗi ngày đau thương, khủng khiếp đang chờ đợi nàng phía trước. III.TÔNG KẾT Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã thể hiện chân thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi đáng thương của Kiều. Đồng thời nó nỗi nhớ người thân da diết và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo, vị tha của nàng khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Qua đây, tác giả thể hiện được thái độ cảm thương sâu sắc với nỗi đau mà Kiều phải trải qua, ca ngợi phẩm chất đẹp đẽ của nàng. Để thể hiện điều này, ta thấy đoạn trích đã có bố cục vô cùng chặt chẽ, khéo léo. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật ước lệ, nghệ thuật miêu tả nội tâm thật đặc sắc. Đặc biệt, bút pháp tả cảnh ngụ tình đạt đến độ mẫu mực trong văn chương. Chính vì thế, đây được coi là một trong những đoạn trích hay nhất của “Truyện Kiều” được nhiều người đọc nhớ mãi.
File đính kèm:
- giao_an_day_them_ngu_van_lop_9_van_ban_kieu_o_lau_ngung_bich.docx