Giáo án dạy thêm Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"

11.Tác giả

- Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Thơ ông không lôi cuốn người đọc bằng những hình ảnh lãng mạn hay ngôn ngữ mượt mà, trau chuốt, âm điệu du dương Ngược lại, người đọc thích thơ ông bởi sự sống động, tự nhiên, gân guốc, táo bạo và độc đáo.

- Thơ ông tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn

- “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” tiêu biểu cho phong cách sáng tác của nhà thơ – chiến sĩ này.

- Tác phẩm đã khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mỹ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

2.Giới thiệu chung bài thơ

- Bài thơ gồm có bảy khổ, theo thể tự do, được viết năm 1969, thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra rất ác liệt. Nhan đề tác phẩm dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng thu hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo của nó.

- Hai chữ “bài thơ” thêm vào cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả. Ông không chỉ viết về những chiếc xe không kính – hiện thực khốc liệt của cuộc chiến mà chủ yếu nhà thơ muốn nói về chất thơ vút lên hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm vượt lên thiếu thốn, gian khổ hiểm nguy của thời chiến.

- Xuyên sốt bài thơ là hai hình ảnh những chiếc xe không kính và những người lính lái những chiếc xe đó

 

docx 6 trang cucpham 02/08/2022 2080
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án dạy thêm Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo án dạy thêm Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"

Giáo án dạy thêm Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH 
-Phạm Tiến Duật-
I/KHÁI QUÁT CHUNG
11.Tác giả
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Thơ ông không lôi cuốn người đọc bằng những hình ảnh lãng mạn hay ngôn ngữ mượt mà, trau chuốt, âm điệu du dương Ngược lại, người đọc thích thơ ông bởi sự sống động, tự nhiên, gân guốc, táo bạo và độc đáo. 
Thơ ông tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” tiêu biểu cho phong cách sáng tác của nhà thơ – chiến sĩ này. 
Tác phẩm đã khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mỹ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
..
2.Giới thiệu chung bài thơ
Bài thơ gồm có bảy khổ, theo thể tự do, được viết năm 1969, thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra rất ác liệt. Nhan đề tác phẩm dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng thu hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo của nó. 
Hai chữ “bài thơ” thêm vào cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả. Ông không chỉ viết về những chiếc xe không kính – hiện thực khốc liệt của cuộc chiến mà chủ yếu nhà thơ muốn nói về chất thơ vút lên hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm vượt lên thiếu thốn, gian khổ hiểm nguy của thời chiến. 
Xuyên sốt bài thơ là hai hình ảnh những chiếc xe không kính và những người lính lái những chiếc xe đó
II/PHÂN TÍCH
1/Khổ 1 +2 :Tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm lạc quan của những chiến sĩ lái xe.
a.Khổ 1 : 
Hai câu đầu :Xưa nay, hình ảnh tàu xe vào thơ rất ít, nếu có thường được mỹ lệ hoá, lãng mạn hoá nhưng trong bài thơ này, Phạm Tiến Duật lại đưa vào một hình ảnh thực đến trần trụi “những chiếc xe không kính”. 
Rồi tác giả giải thích nguyên nhân của những chiếc xe ấy cũng rất thực bằng 2 câu thơ rất gần với văn xuôi lại có giọng thản nhiên, càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của nó.
“Không có kính không phải xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Ở đây tác giả sử dụng điệp ngữ “không có kính”, nhắc lại hai lần chữ “bom” với những động từ mạnh “giật”, “rung” khiến cho “kính vỡ đi rồi” càng tăng gấp bội sự dữ dội, khốc liệt của chiến trường trong những năm tháng hào hùng của dân tộc
Hình ảnh này không hiếm trong chiến tranh nhưng phải là người có hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng và tinh nghịch, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa vào thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mỹ.
Hai câu sau: Ra chiến trường, sự sống và cái chết cách nhau chỉ trong gang tấc nhưng người chiến sĩ không run sợ, hoảng hốt. Trái lại họ hiện ra trong tư thế ung dung, hiên ngang, tự tin, tự hào:
“Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”,
Kết cấu câu thơ sáu chữ với nhịp 2/2/2 đều đặn, điệp từ “nhìn” kết hợp với phép liệt kê và đảo ngữ “ung dung” làm nổi bật tư thế ấy.
Người lính lái xe “nhìn đất” để vượt qua đường đá núi gập ghềnh, hiểm trở, “nhìn trời” để quan sát máy bay, pháo sáng. Còn « nhìn thẳng” là cái nhìn biểu hiện sự tập trung cao độ, cái nhìn bất khuất không thẹn với đất với trời, nhìn thẳng vào mọi gian khổ, hy sinh với một tinh thần trách nhiệm cao mà không hề né tránh. Tư thế của họ mới thật đàng hoàng làm sao!
b. Khổ 2 
Ngồi trên những chiếc xe không kính, người lái xe như tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng..Như sa như ùa vào buồng lái”.
Những câu thơ tả thực tới từng chi tiết tốc độ của những chiếc xe đang lao nhanh trên đường. 
Không có kính chắn gió, các anh đối mặt với bao khó khăn, nguy hiểm, nào là gió , nào là sao, nào là chim đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa – rơi rụng, va đập, quăng ném vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. 
Đọc khổ thơ ta có cảm giác hình như chính nhà thơ đang cầm lái, hay đang ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ mới sinh động, cụ thể, đầy ấn tượng, gợi cảm giác chân thực như vậy. 
Căng thẳng, khốc liệt là thế nhưng với nghệ thuật so sánh, nhân hoá tài tình, nhà thơ đã biến những khó khăn, trở ngại khi lái những chiếc xe không kính trở nên gần gũi, gắn bó thân thương hơn. 
Chính vì thế mà những người lái xe vẫn cảm thấy gió không hề làm đau, làm rát mắt họ mà ngược lại nó như vỗ về nhè nhẹ “xoa” vào đôi mắt “đắng. Họ vẫn vui với “ sao trời” và “cánh chim”, chúng như bầu bạn, luôn sát cánh với người lính lái xe trên suốt chặng đường dài ra trận. 
Hiện thực thì khốc liệt, nhưng người chiến sĩ lại cảm nhận nó bằng một tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, nhạy cảm với cái đẹp. Điều đó chứng tỏ phải là những con người có nghị lực, bản lĩnh phi thường thì những chiến sĩ lái xe mới có được cảm nhận như thế.
Đặc biệt hình ảnh “Con đường chạy thẳng vào tim” là một khái quát đặc sắc của con đường trái tim. Phải chăng đấy là con đường Trường Sơn, con đường giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
2/Khổ 3+4 : Thái độ ngang tàng thách thức, bất chấp mọi gian khổ, khó khăn 
Không có kính ừ thì có bụi.Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Nếu như ở hai khổ thơ trên là những cảm giác về những khó khăn, thử thách dù sao cũng vẫn mơ hồ - thì đến đây, nó ập tới cụ thể, trực tiếp, dữ dội. Biện pháp so sánh « bụi phun tóc trắng như người già » và « mưa tuôn mưa xối như ngoài trời» đã nói rất rõ với chúng ta về điều đó. Đây cũng chính là hậu quả tất yếu của những chiếc xe bị mất kính bảo vệ. 
Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng mà lại càng bình tĩnh dũng cảm hơn « Không có kính ừ thìkhông có kính ừ thì.. ». Ở đây, cấu trúc đảo, từ láy « phì phèo », ha ha ; lời thơ mà như lời nói thông thường, nôm na mà cứng cỏi, ngang tàng toát ra một thái độ bất chấp mọi khó khăn, gian khổ.
Đằng sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn quyết tâm vượt gian khổ, hiểm nguy :
Chưa cần.
Nhìn nhau
Chưa cần
Mưa ngừng..
Cấu trúc câu thơ ở đoạn này vẫn cân đối nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. 
Cuối đoạn là câu « Mưa ngừng gió lùa mau khô thôi » có bảy tiếng mà có đến 6 thanh bằng gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung, lạc quan, thanh thản, trôi chảy như những chiếc xe vun vút bươn trải trên đường. 
3/ Khổ 5+6: Tâm hồn sôi nổi của tuổi trẻ, tình đồng chí, đồng đội sâu sắc.
*Khổ 5 : 
Sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên những “tiểu đội xe không kính”. Họ có thể “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” mà không cần mở cửa xe một cách thoải mái, tự hào và thắm tình đồng đội. 
Chỉ một cái bắt tay cũng ấm lòng, đủ động viên nhau, cảm thông với nhau. Cái bắt tay truyền cho nhau cả tâm hồn, tình cảm. Tình cảm ấy thắm thiết như ruột thịt, như anh em trong gia đình. 
*Khổ 6 :
Hai câu đầu : “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời – Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy” 
Đây là một cách định nghĩa về gia đình thật lạ, thật tếu, thật hóm hỉnh và cũng thật sâu nặng, thiêng liêng. Chỉ cần chung bát chung đũa thôi đã thành một gia đình rồi.
Câu thơ thật ấm tình cảm đồng chí đồng đội, giúp con người xích lại gần nhau trong những cái chung: chung bát đũa, nắm cơm, bếp lửa, chung hoàn cảnh, chung con đường với vô vàn thách thức nguy hiểm phía trước.
Hai câu sau : « Võng mắc .xanh thêm » 
Từ láy ''Chông chênh'' thật gợi hình gợi cảm. Nó gợi một tư thế không thăng bằng, không vững chãi, cho thấy các anh phải ăn, phải ngủ những giấc ngủ thật ngắn, chập chờn, tạm bợ bên cánh võng trên chiếc xe chẳng có kính chắn gió, chắn bụi.
Gian khố thế đấy nhưng thật đáng quý biết bao khi họ vẫn ''Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước'' vượt qua hết thảy mưa bom, bão đạn của kẻ thù với tư thế hiên ngang, bất chấp khó khăn, gian khổ: ''Lại đi lại đi trời xanh thêm''.
Điệp ngữ ''lại đi'' được láy lại 2 lần trong một câu thơ, nhấn mạnh, tái hiện những vòng bánh xe vẫn lăn bon bon tiền về phía trước trên những chặng đường khúc khuỷu, gập ghềnh; khẳng định hành trình bất tận không ngưng nghỉ của tiểu đội xe không kính. Họ luôn trong tư thế trên đường, tư thế của những người “ta đi tới”. Đó là tư thế thách thức kẻ thù, làm nên chiến thắng.
Không những vậy, ẩn dụ ''trời xanh'' thật đặc sắc, khiến câu thơ như bay phấp phới trong màu xanh mộng mơ, hy vọng. Nó gợi lên tâm hồn chan chứa lạc quan, tràn đầy niềm tin, vô cùng yêu đời của những người lính trẻ- thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ.
Phải chăng, chính tư thế ấy, niềm tin ấy của người lính mà miền Nam được giải phóng, nhân dân ta được sống dưới bầu trời ấm no, tự do, hạnh phúc?
4/ Khổ cuối: Ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Bốn dòng thơ dựng lên hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ, thú vị.
Hai câu đầu dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra : xe không kính, k đen, k mui, có xước. 
« Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước »
Nghệ thuật liệt kê, điệp ngữ « không có » nhắc lại ba lần như nhân ba sự thiếu thốn đến trần trụi của những chiếc xe, đồng thời còn cho thấy mức độ ác liệt đến khủng khiếp của chiến trường.
Hai dòng thơ mà như ngắt thành 4 khúc ./// như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, chông gai, bốn khúc cua vòng, rẽ ngoặt trêu người, trọc tức đoàn xe. 
Hai câu sau : Vậy mà đoàn xe vẫn vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng vì miền Nam, vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất đất nước.
« Xe vẫn chạy.
Chỉ cần..
Đặc biệt, tỏa sáng chói ngời đoạn thơ là hình ảnh trong xe có một « trái tim ». Trái tim vừa là hình ảnh hoán dụ, vừa là hình ảnh ẩn dụ. Trái tim ấy thay thế cho tất cả những thiếu thốn (không kính, không đèn, không mui, có xước) làm nên sức sống mãnh liệt, không gì tàn phá, ngăn trở được. 
Với hình ảnh này, hình như tác giả còn muốn khái quát một điều : sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con người – con người mang trái tim nồng nàn yêu thương ; chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng dũng cảm tuyệt vời ; mang tinh thần lạc quan và một ý chí quyết tâm, niềm tin mãnh liệt vào ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. 
Trái tim ấy toả sáng rực rỡ mãi đến muôn thế hệ mai sau khiến ta không quên một thế hệ thanh niên thời kỳ chống Mỹ hào hùng, oanh liệt của dân tộc.
Chính vì thế « Trái tim » trở thành nhãn tự bài thơ, cô đúc ý toàn bài, hội tụ vẻ đẹp của người lính và để lại cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.
Tóm lại, khổ thơ cuối vẫn một giọng thơ mộc mạc, giản dị gần với lời nói thường, như văn xuôi vậy mà nhạc điệu, hình ảnh, ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ. Tất cả đã hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời về những chiến sĩ vận tải Trường Sơn trong những năm chống Mĩ cứu nước. 
III/TỔNG KẾT
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một tác phẩm trữ tình cách mạng. Nhà thơ đã khắc hoạ hình ảnh những chiến sĩ lái xe bằng tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc. Qua hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính, tác giả khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mỹ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.Họ là những con người tự nguyện dấn thân, vui trong gian khổ, chấp nhận hi sinh. 
Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên nhưng giàu sức gợi cảm, hình ảnh sáng tạo, độc đáo, nhịp thơ tự đo, phóng khoáng Tất cả những yếu tố đó làm nên cái hay, cái đẹp của bài thơ. 
Song điều quý giá nhất vẫn là cái tình, là sự hoá thân của tác giả vào nhân vật để tìm tòi, phát hiện ra những hạt ngọc long lanh trong tâm hồn thế hệ trẻ anh hùng của một dân tộc anh hùng.

File đính kèm:

  • docxgiao_an_day_them_ngu_van_lop_9_van_ban_bai_tho_ve_tieu_doi_x.docx