Đề và đáp án luyện thi vào Lớp 10 môn Ngữ văn

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

Câu chuyện chú Dê

Buổi sớm nọ, một chú Dê đừng lảng vảng ngoài vườn rau, chú ta muốn ăn cải trong vườn nhưng vì bỏ rào cao nên không thể vào được.

Lúc ấy, trời vờn tối, mặt trời vừa ló dạng ở đằng đông, Chú Dê nhìn thấy cái bóng của mình dài thật di. Chú ta chợt nghĩ “Ôi, mình cao thế này ư? Thế thì mình có thể ăn quả trên cây rồi, cần gì phải ăn những cây cải dưới đất nữa"

Ở đằng xa có một vườn táo. Các cây táo trĩu nặng những quả táo ửng hồng. Chú Dê

hăm hở chạy đến đó.

Khi đến nơi thì trời đã trưa, lúc này mặt trời lên đến đỉnh đầu. Bóng chú Dê trở thành một cái bóng nhỏ sát chân chú.

"Ôi, thì ra mình bể nhỏ đến thế làm sao mình ăn quả trên cây được, thôi đành trở về ăn

cải trong vườn thôi". Chú ta buồn bã quay lại nơi vườn cải.

Khi đến nơi, mặt trời đã xuống phía tây, cái bóng của chủ lại trải dài thật dài.

"Sao mình lại trở về đây làm gì nhỉ? Mình cao thế này thì ăn những quả táo trên cây đầu thành vấn đề?" - Chú ta phiền não, lẩm bẩm.

Câu 1 (0,5 điểm). Văn bản trên thuộc kiểu văn bản gì (tự sự, thuyết minh, nghị luận)? Câu 2 (0,5 điểm). Em hãy chỉ ra những hành động của chú Dê trong câu chuyện trên. Câu 3 (1,0 điểm). Vì sao cuối câu chuyện, chú ta phiền não, lầm bầm?

Câu 4 (1,0 điểm). Bài học rút ra từ câu chuyện trên.

I. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm): Từ nội dung gợi ra ở phần Đọc hiểu, em hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) bàn về việc mỗi người cần xác định mục tiêu trong cuộc sống của mình.

Câu 2 (5,0 điểm): Trong bài thơ Khoảng trời, hố bom, Lâm Thị Mỹ Dạ có đoạn viết:

Chuyện kể rằng: em, cô gái mở đường

Để cứu con đường đệm ấy khỏi bị thương Cho đoàn xe kịp giờ ra trận

Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa (Theo Văn chương một thời để nhớ, NXB Văn học, 2006)

Hình ảnh cô gái thanh niên xung phong mở đường một lần nữa được Lê Minh Khuê

khắc họa trong truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi (Ngữ văn 9, tập hai, NXB Giáo dục, 2006). Em hãy phân tích để làm nổi bật vẻ đẹp của các nhân vật trong truyện ngắn đó.

 

docx 79 trang cucpham 01/08/2022 360
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề và đáp án luyện thi vào Lớp 10 môn Ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề và đáp án luyện thi vào Lớp 10 môn Ngữ văn

Đề và đáp án luyện thi vào Lớp 10 môn Ngữ văn
ĐỀ 1
ĐỀ LUYỆN THI VÀO LỚP 10
Môn NGỮ VĂN
ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
Câu chuyện chú Dê
Buổi sớm nọ, một chú Dê đừng lảng vảng ngoài vườn rau, chú ta muốn ăn cải trong vườn nhưng vì bỏ rào cao nên không thể vào được.
Lúc ấy, trời vờn tối, mặt trời vừa ló dạng ở đằng đông, Chú Dê nhìn thấy cái bóng của mình dài thật di. Chú ta chợt nghĩ “Ôi, mình cao thế này ư? Thế thì mình có thể ăn quả trên cây rồi, cần gì phải ăn những cây cải dưới đất nữa"
Ở đằng xa có một vườn táo. Các cây táo trĩu nặng những quả táo ửng hồng. Chú Dê
hăm hở chạy đến đó.
Khi đến nơi thì trời đã trưa, lúc này mặt trời lên đến đỉnh đầu. Bóng chú Dê trở thành một cái bóng nhỏ sát chân chú.
"Ôi, thì ra mình bể nhỏ đến thế làm sao mình ăn quả trên cây được, thôi đành trở về ăn
cải trong vườn thôi". Chú ta buồn bã quay lại nơi vườn cải.
Khi đến nơi, mặt trời đã xuống phía tây, cái bóng của chủ lại trải dài thật dài.
"Sao mình lại trở về đây làm gì nhỉ? Mình cao thế này thì ăn những quả táo trên cây đầu thành vấn đề?" - Chú ta phiền não, lẩm bẩm.
(Nguồn  Câu 1 (0,5 điểm). Văn bản trên thuộc kiểu văn bản gì (tự sự, thuyết minh, nghị luận)? Câu 2 (0,5 điểm). Em hãy chỉ ra những hành động của chú Dê trong câu chuyện trên. Câu 3 (1,0 điểm). Vì sao cuối câu chuyện, chú ta phiền não, lầm bầm?
Câu 4 (1,0 điểm). Bài học rút ra từ câu chuyện trên.
LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm): Từ nội dung gợi ra ở phần Đọc hiểu, em hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) bàn về việc mỗi người cần xác định mục tiêu trong cuộc sống của mình.
Câu 2 (5,0 điểm): Trong bài thơ Khoảng trời, hố bom, Lâm Thị Mỹ Dạ có đoạn viết:
Chuyện kể rằng: em, cô gái mở đường
Để cứu con đường đệm ấy khỏi bị thương Cho đoàn xe kịp giờ ra trận
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa (Theo Văn chương một thời để nhớ, NXB Văn học, 2006)
Hình ảnh cô gái thanh niên xung phong mở đường một lần nữa được Lê Minh Khuê
khắc họa trong truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi (Ngữ văn 9, tập hai, NXB Giáo dục, 2006). Em hãy phân tích để làm nổi bật vẻ đẹp của các nhân vật trong truyện ngắn đó.
ĐÁP ÁN
Phần I. Đọc hiểu
Câu 1: Văn bản trên thuộc kiểu văn bản tự sự.
Câu 2: Những hành động của chú Dê trong đoạn trích
lảng vảng ngoài vườn rau
nhìn thấy cái bóng của mình thật dài -
chợt nghĩ “Ôi mình cao thể này ư? Thế thì mình có thể ăn quả trên cây rồi cần gì phải ăn những cây cài dưới đất nữa”.
hăm hở chạy đến vườn táo
buồn bã quay lại nơi vườn cải
phiền não, lẩm bẩm
Câu 3: Chú ta phiền não, lầm bầm vì thấy rằng quyết định của mình là sai lầm.
Câu 4: Bài học rút ra từ câu chuyện: Chúng ta nên xác định mục tiêu rõ ràng và kiên định với mục tiêu mình lựa chọn.
Phần II. Làm văn Câu 1
Giới thiệu vấn đề
Giải thích vấn đề
Mục tiêu: đích cần đạt tới để thực hiện nhiệm vụ
Việc xác định mục tiêu trong cuộc sống của mỗi người là vô cùng quan trọng.
Bàn luận vấn đề
Tại sao cần xác định mục tiêu trong cuộc sống?
+ Mục tiêu khiến cuộc sống con người có phương hướng và có ý nghĩa
+ Mục tiêu sẽ thúc đẩy con người nỗ lực để vươn tới thành công
+ Một người sống có mục tiêu tức là sống có ý tưởng, có ước mơ và khát vọng
Cần phải có mơ ước, có ý tưởng sống rõ ràng, hiểu được năng lực, thế mạnh của bản thân để xác định được đúng mục tiêu của mình.
Khi đã có mục tiêu cần vạch ra kế hoạch cụ thể, không ngừng nỗ lực, cố gắng vượt qua mọi khó khăn để vươn đến mục tiêu - Mỗi người cần xây dựng cho mình những mục tiêu riêng trong cuộc sống
Phê phán những người sống không mục tiêu không lý tưởng
Liên hệ bản thân.
Câu 2
Giới thiệu chung về tác giả tác phẩm
Lê Minh Khuê sinh năm 1949, quê ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
Trong kháng chiến chống Mĩ bà gia nhập thanh mên xung phong, truyện của bà viết về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ ở tuyến đường Trường Sơn. Sau năm 1975, tác phẩm của nhà văn bám sát những chuyển biến của đời sống xã hội và con người trên tinh thần đổi mới.
Tác phẩm Hoàn cảnh sáng tác: năm 1971, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ ở vào giai đoạn ác liệt nhất.
Các em có thể trích dẫn câu thơ trong đề bài của Lâm Thị Mỹ Dạ để dẫn dắt vào đề.
Phân tích vẻ đẹp của ba nhân vật
Nhà văn Lê Minh Khuê đã tái hiện lại một tình huống quen thuộc trong chiến trường những năm tháng chống Mỹ cứu nước gian khổ ác hệt – tình huống phá bom. Đây là tình huống đầy thử thách nhưng lại là công việc thường nhật của các cô gái trong tổ trinh sát mặt đường trên tuyến đường Trường Sơn.
Tác giả đặt nhân vật vào hoàn cảnh khắc nghiệt mà ranh giới giữa sự sống và cái chết
rất mong manh. Nhưng cũng từ đó, các nhân vật bộc lộ phẩm chất của mình sự lạc quan, dũng cảm tinh thần trách nhiệm với công việc, tình đồng chí đồng đội sâu sắc... Đó là phẩm chất anh hùng của thế hệ trẻ Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Hoàn cảnh sống và chiến đấu của ba cô gái
Ba cô gái sống trong một cái hang dưới chân cao điểm ở vùng trọng điểm bắn phá của giặc Mĩ.
Các cô đảm nhiệm công việc phá bom “Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần”. Đó là một công việc nguy hiểm gian khổ đòi hỏi sự dũng cảm tinh thần trách nhiệm cao.
Từ hang các cô ở, nhìn ra bên ngoài đường bị đánh lở loét màu đất đỏ trắng lẫn lộn chỉ có thân cây bị tước khô cháy. Đất bốc khói không khí bàng hoàng máy bay rẻ rè, phản lực gầm gào... Ở đây không có dấu hiệu của sự sống.
=> Bằng những lời kể mộc mạc, giọng điệu tự nhiên, nhà văn Lê Minh Khuê đã tái hiện chân thực hiện thực khốc liệt của chiến trường. Đặt nhân vật vào hoàn cảnh đó, bà đã khắc họa nổi bật phẩm chất anh hùng của những cô gái thanh niên xung phong trẻ tuổi
Vẻ đẹp của ba cô thanh niên xung phong
Những nét chung
+ Lòng dũng cảm, sẵn sàng hi sinh không quản ngại khó khăn gian khổ, tinh thần trách nhiệm cao, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ được phân công
+ Sống lạc quan, nhiều mơ mộng, thích làm đẹp cho cuộc sống ngay cả trong chiến trường
+ Tinh đồng đội keo sơn gắn bó.
→ Đó là những phẩm chất vừa cao đẹp, vừa bình dị lạc quan của thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến tranh chống Mĩ
Nét tính cách riêng của mỗi người
Nhân vật chị Thao:
Sự cứng cỏi, điềm tĩnh:
+ Những lúc sắp bước vào cuộc chiến và sau cuộc chiến chị bình tĩnh đến phát sợ: bóc bánh quy ra ăn, lúc từ mặt đường đầy đạn bom trở về chị vẫn bình thản như không.
+ Chị luôn có những mệnh lệnh quyết đoán: lệnh cho Phương Định ở lại hàng trực điện
đài còn chị và Nho lên mặt đường
+ Lúc Nho bị thương dù rất lo lắng nhưng chị không hề khóc, còn bảo Phương Định hát để xua đi căng thẳng.
=> Chị Thao là người bình tĩnh, cứng cỏi nhất tổ trinh sát mặt đường.
Là một tâm hồn nhạy cảm nữ tính trẻ trung, giàu tình cảm
+ Chị hay hát và có đến 3 quyển sổ dày để chép bài hát.
+ Chị cũng thích làm đẹp: lông mày tỉa nhỏ như cái tăm áo lót thêu chỉ màu
+ Chị rất sợ máu và vắt.
+ Rất gắn bó với đồng đội chị kín đáo quan tâm, lo lắng cho họ. No bị thương: chị mở to mắt như không còn sự sống hng túng quanh Nho, ngắm nhìn Nho ngủ, sửa cổ áo, mái tóc cho Nho.
=> Vẻ đẹp nữ tính đã tạo nên chiều sâu nhân vật này. Vẻ đẹp ấy khiến chị Thao trở nên gần gũi hơn, đời thường hợm.
Nhân vật Nho:
Nhỏ tuổi nhất trong tổ trinh sát mặt đường nên được các chị yêu chiều như cô em út trong nhà.
+ Nho mang vẻ xinh xắn nhẹ nhõm dễ thương, cô như một que kem trắng bé nhỏ khiến Phương Định thương mến đến mức muốn bế lên tay.
+ Nho hay vòi vĩnh, làm nũng các chị hay đòi ăn kẹo, lần nào Phương Định cũng chiều theo cô.
Mạnh mẽ, can đảm dám đối mặt với đạn bom của chiến tranh Khi bị thương cô không kêu rên một tiếng không về quân y viện chữa trị mà vẫn bám trụ lại cao điểm để hoàn thành công việc của mình
=>Dù ít tuổi nhất nhưng Nho cũng mang những nét can đảm riêng, khó lẫn.
Nhân vật Phương Định:
Hồn nhiên, mơ mộng, yêu đời: Trong bom đạn khốc hết, cô vẫn hồn nhiên hát, hát dân ca quan họ mềm mại dịu dàng hát Ca-chau-Sa của Hồng quân Liên Xô, hát dân ca Ý trữ tình giàu có... Cô gái ấy còn hay mơ mộng ngắm mình trong gương nhớ về kỉ niệm thơ trẻ, gia đình, quê hương...
-> Cô vui thích cuống cuồng khi gặp cơn mưa đá - một niềm vui rất đỗi nữ tính Những
xúc cảm hồn nhiên như nguồn sống, là điểm tựa giúp cô có thêm sức mạnh vượt qua mưa bom bão đạn của chiến trường
Dũng cảm có tinh thần trách nhiệm trong công việc phẩm chất anh hùng)
+ Phương Định giới thiệu về công việc phá bom của mình bằng giọng điệu khô khốc, thản nhiên như chính bản lĩnh kiên cường của cô: “Việc của chúng tôi là ngồi đây, khi có bom nổ thì chạy lên... Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần”. Cô kể mình bị thương nhưng quyết không đi viện quân y vì việc nào cũng có cái thú của nó”. Vâng, chính chiến tranh và đạn bom đã làm cô trưởng thành trở thành dũng sĩ mạnh mẽ mà cô không hề biết. Thật đáng phục làm sao!
+ Sự dũng cảm còn thể hiện trong từng cách nghĩ cách hành động của Phương Định. Khi đến gần quả bom cô vẫn giữ được tư thế hiên ngang ngẩng cao đầu Dù có kmh nghiệm và ngày phá tới năm quả bom nhưng cô có lúc vẫn thấy “rùng mình” nghĩ đến cái chết, có lúc “thần kinh căng như dây chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu” nhưng cô vẫn dũng cảm đến gần dùng xẻng đào đất dưới quả bom.. Như thế cô đã đặt công việc lên trên cả tính mạng của mình. Quả thật, bom đạn của kẻ thù có thể đốt cháy cánh rừng già Trường Sơn, có thể cày nát những con đường xe qua nhưng không thể nào dập tắt
được ý chí, lòng dũng cảm và bản lĩnh của các cô gái thanh niên xung phong như Phương Định. Đó chính là phẩm chất anh hùng đáng trân quý, ngưỡng mộ.
=> Dường như nhà văn Lê Minh Khuê đã hóa thân cao độ vào nhân vật để miêu tả tường tận chân thực những suy nghĩ nội tâm trong cổ và để tái hiện một cách chân thực nhất đời sống chiến đấu nơi chiến trường ác liệt. Nhờ đó chúng ta càng hiểu và thêm yêu mến nhân vật Phương Định
Giàu tình cảm
+ Trong suy nghĩ của cô gái trẻ ấy, những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ. Cô luôn dành cho các anh bộ đội một nêm thán phục, ngưỡng mộ như thế đấy!
+ Phương Định rất hiểu tính c ... uân”,”lộc”,”người” như trải rộng khung cảnh hiện thực khi gắn với cuộc sống lao động, chiến đấu của nhân dân. Nhà thơ đã sáng tạo cặp hình ảnh sóng đôi đẹp như hai vế của câu đối mừng xuân để nói về hai lực lượng chủ yếu của cách mạng, hai nhiệm vụ chiến lược của đất nước. Đó là người chiến sĩ và người lao động – bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, quê hương.
Từ “lộc” được dùng với hai lớp nghĩa: tả thực chồi non, nhành biếc và ẩn dụ cho sức
sống, thế vươn lên, sức phát triển mới, thành quả tốt đẹp là mùa xuân. “Lộc” trên cành lá ngụy trang theo bước chân người cầm súng ra trận,“lộc” trải dài trên những nương mạ theo bàn tay người ra đồng.
-> Như thế, người chiến sĩ, người lao động đã đem mùa xuân, gieo mùa xuân đến mọi miền đất nước. Họ trở thành những con người làm ra mùa xuân, bảo vệ mùa xuân. Và họ đã làm nên cái giai điệu chính của bản hợp xướng mùa xuân, tạo nhịp điệu hối hả,
hào hùng:
"Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao”
Nghệ thuật điệp ngữ “tất cả” cùng các từ láy “hối hả”, “xôn xao” làm nổi bật không khí khẩn trương, náo nức của đất nước trong những năm tháng gian lao, hào hùng. Cách ngắt nhịp 2/1/2 làm cho câu thơ vang lên một nhịp điệu tươi vui, mạnh mẽ. Đó là hành khúc mùa xuân của thời đại Hồ Chí Minh.
Ý kiến đánh giá, bình luận:
Mùa xuân là đề tài truyền thống trong thơ ca dân tộc. Thanh Hải đã góp vào đó một
bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình nghĩa. Thể thơ năm chữ, giọng thơ lúc mạnh mẽ, lúc thiết tha ngân vang, ngôn ngữ thơ trong sáng và biểu cảm, hàm súc và hình tượng, các phép tu từ được vận dụng sắc sảo và tài hoa. Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu quê
hương, đất nước được nhà thơ diễn tả sâu sắc và cảm động trong đoạn thơ, bài thơ. Mỗi
cuộc đời hãy là một mùa xuân, đất nước ta sẽ mãi mãi là những mùa xuân tươi đẹp.
Kết bài:
“Mùa xuân nho nhỏ” là khúc ca say mê về tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc sống
làm rung động trái tim người đọc bao thế hệ.Đến với bài thơ, đặc biệt là đoạn thơ trên, ta không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của mùa xuân mà còn xúc động trước thế giới tâm hồn của thi nhân. Nhẹ nhàng mà sâu lắng, những vần thơ của Thanh Hải đã khơi gợi trong ta tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc đời.
.............................................
ĐỀ 20
ĐỀ LUYỆN THI VÀO LỚP 10
Môn NGỮ VĂN
Câu 1.(3,0 điểm)
Đọc đoạn trích dưới đây:
Lời khen như tia nắng mặt trời, nó cần thiết cho muôn loài, trong đó có con người phát triển. Vậy mà hầu hết chúng ta luôn vẫn đang sử dụng những làn gió lạnh như cắt để phê phán và thường ngần ngại khi tặng người thân của mình những tia nắng ấm áp từ những lời khen tặng. Ngẫm nghĩ kĩ, chúng ta sẽ thấy có những lời khen đã làm thay đổi hẳn cuộc đời của một ai đó.
Từ kết quả của nhiều cuộc thí nghiệm, nhà tâm lí học BFSkinney kết luận rằng lời khen luôn luôn khiến cho những hành vị tốt được tăng lên và những hành vi xấu giảm đi.
Trong rất nhiều gia đình, dường như hình thức giao tiếp chính của cha mẹ với con cái là quát mắng và la rầy. Rất nhiều trường hợp con cái trở nên tệ hơn chứ chẳng phải khá hơn chút nào sau mỗi lần bị đối xử như vậy, các bậc cha mẹ thực sự không hiểu rằng điều mà con cái họ thực sự cần là lòng yêu thương và những lời nói chân thành. Lời động viên, khen ngợi đúng lúc hoặc lòng bao dung giúp họ vượt lên những lỗi lầm và nỗ lực cao hơn ...
(Dale Carnegic, Đắc nhân tâm, NXB Thế giới 2017, tr. 259 263)
Thực hiện các yêu cầu: Chỉ ra thái độ thường có của chúng ta khi giao tiếp với người thân được nếu trong đoạn trích. ( )
Theo tác giả, con cái thực sự cần điều gì từ các bậc cha mẹ của mình?
Tác dụng việc viện dẫn kết luận của nhà tâm lí học B.F.Skinner?
Em có cho rằng ý kiến của tác giả: “Lời khen...cần thiết cho muôn loài. trong đó có con người phát triển” mâu thuẫn với ý kiến của Tuân Tử: “Người chê ta mà chê phải là thầy ta” không? Vì sao?
Câu 2 (3,0 điểm)
Viết một bài văn ngắn (khoảng một trang giấy thi) bàn về ý kiến được nêu Trong đoạn trích: “Lời khen
như tia nắng mặt trời...".
Câu 3 (4,0 điểm) Phân tích lời cha nói với con trong đoạn thơ sau: Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn.
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn?
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được Nghe con.
(Trích Nói với con - Y Phương, Ngữ văn 9, Tập hai, NXB Giáo dục, 2005, trang 72 - 73)
GỢI Ý ĐÁP ÁN ĐỀ THI 
Câu 1.(3,0 điểm)
Thái độ thường có của chúng ta khi giao tiếp với người thân được nêu trong đoạn
trích là: hình thức giao tiếp chính của cha mẹ với con cái là quát mắng và la rầy.
Theo tác giả, con cái thực sự cần lòng yêu thương và những lời nói chân thành. Lời động viên, khen ngợi đúng lúc hoặc lòng bao dung giúp họ vượt lên những lỗi lầm và
nỗ lực cao hơn từ các bậc cha mẹ của mình:
Tác dụng việc viện dẫn kết luận của nhà tâm lí học B.F.Skinner: "lời khen luôn luôn khiến cho những hành vị tốt được tăng lên và những hành vi xấu giảm đi." nhằm giúp đoạn văn trở lên có ý nghĩa hơn và có giá trị chứng thực hơn.
d)
Em cho rằng không mâu thuẫn bởi: khen cũng tốt, mà chê cũng là tốt
Người chê ta mà chê phải là thầy của ta: Dám chê người là trung thực, thẳng thắn. Chê phải vì người ta nhìn thấy khiếm khuyết của ta, cái mà ta không nhìn thấy, để nhắc nhở, khuyên bảo, để mong ta tiến bộ. => Những người như thế đáng là thầy ta, đáng được ta trân trọng, cảm phục.
Lời khen như tia nắng mặt trời, nó cần thiết cho muôn loài, trong đó có con người phát triển: lời khen là cần thiết, là điều nên có trong cuộc sống, ta có thể dễ dàng cho đi lời
khen đề thúc đẩy nhau tiến bộ trong cuộc sống.
Câu 2 (3,0 điểm)
Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: vai trò của lời khen trong cuộc sống - có trích dẫn "Lời
khen như tia nắng mặt trời...".
Bàn luận vấn đề
Giải thích
Lời khen: là lời ghi nhận, động viên, khích lệ tinh thẩn của người khác khi họ làm được điều gì đó tốt đẹp.
Mặt trời: tỏa ra ánh sáng tươi vui, ấm áp cho vạn vật, mang lại sự sống cho muôn loài.
"Lời khen giống như mặt trời: bạn càng cho đi, mọi sự chung quanh bạn càng toả sáng". Câu nói đã khẳng định vai trò quan trọng của lời khen trong cuộc sống - giúp cho mọi người cảm thấy hạnh phúc hơn và nỗ lực nhiều hơn.
Phân tích vai trò của lời khen trong cuộc sống
Lời khen có tác dụng tiếp thêm sự tự tin, tự hào cho người khác, để họ biết họ đang đi đúng hướng và nên duy trì, tiếp tục.
Tăng sự hưng phấn, tiếp thêm động lực để người khác tiếp tục cố gắng và gặt hái nhiều thành công hơn nữa.
Lời khen chứng tỏ việc làm của họ được quan tâm, được theo dõi. Họ sẽ cảm thấy hạnh phúc, thấy mình không đơn độc và muốn cố gắng nhiều hơn.
Nếu sự nỗ lực và thành quả không được ghi nhận và ghi nhận kịp thời, có thể làm
người ta buồn tủi, nản chí, cảm thấy sự cố gắng của mình không có giá trị hoặc trở nên tự ti và dễ buông xuôi.
(Học sinh lấy ví dụ cụ thể.)
=> Khuyến khích những lời động viên, khen ngợi kịp thời, đúng lúc, đúng người, đúng sự việc.
Bàn bạc
Lời khen không được giả tạo, nếu không sẽ gây ra chứng "ảo tưởng" cho người được khen. Điều đó, khiến họ không tiến bộ được, thậm chí còn chủ quan, tự mãn dễ vấp ngã, thất bại.
Lời khen không chỉ dành cho người thành công mà còn cẩn cho những người dù chưa thành công nhưng đã có sự cố gắng và tiến bộ hơn chính họ của ngày hôm qua.
Bên cạnh lời khen, cuộc sống vẫn rất cần những lời góp ý chân thành, mang tính chất
xây dựng để giúp mỗi người khắc phục điểm yếu, hoàn thiện mình hơn. Kết thúc vấn đề
Bài học: Đừng tiết kiệm lời khen nhưng cũng đừng lạm dụng và nói những lời khen sáo rỗng; người nghe cần biết phân biệt đâu là lời khen thật, đâu là những lời sáo rỗng.
Liên hệ bản thân.
Câu 3 (4,0 điểm) Phân tích lời cha nói với con trong đoạn thơ sau:
Mở bài
– Giới thiệu đôi nét về tác giả và tác phẩm:
+ Nhà thơ Y Phương là một nhà thơ đặc trưng cho người dân tộc, thơ ông là tiếng nói được phát từ sâu thẳm trái tim, vừa gần gũi, giản dị nhưng cũng chứa đựng nhiều giá trị nhân văn sâu sắc.
+ “Nói với con” là một bài thơ hay của Y Phương nói lên tình cảm thiêng liêng giữa cha và con.
+ Trích dẫn đoạn thơ
Thân bài
Phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình
Người cha nói với con về sức sống mãnh liệt, bền bỉ về truyền thống cao đẹp của quê hương
+ Người đồng mình: cha mẹ, đồng bào, người cùng quê hương
+ Khẳng định phẩm chất của người đồng mình, phẩm chất của người đồng mình thể hiện qua lời nói mộc mạc, giản dị, gợi nhiều yêu thương, gần gũi
Phẩm chất cao đẹp, mạnh mẽ của người đồng mình:
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh không lo cực nhọc
+ Cuộc sống lạc quan, tràn đầy niềm vui
+ Niềm tin thủy chung với nơi chôn rau cắt rốn
→ Với những điệp từ, điệp ngữ, cách so sánh cụ thể kết hợp với nhiều kiểu câu dài ngắn khác nhau, lời tâm tình người cha góp phần khẳng định lối sống mạnh mẽ, khoáng đạt gắn bó tha thiết với quê hương
Mong muốn của người cha về đứa con
Mong con sống nghĩa tình, thủy chung với quê hương
+ Biết chấp nhận khó khăn và vượt qua khó khăn bằng ý chí, nghị lực và niềm tin của bản thân
+ Người đồng mình tuy “thô sơ da thịt” nhưng đều tự lực, tự cường “tự đục đá kê cao quê hương”, duy trì truyền thống với tập quán của người đồng mình
Người cha mong con vững vàng, tự hào vào truyền thống của quê hương. Lấy những điều tốt đẹp, bình dị làm hành trang vững bước trên đường đời
Phân tích đặc sắc nghệ thuật của bài thơ
Thể thơ tự do mạch cảm xúc tự nhiên, cách nói giàu hình ảnh, mộc mạc, giàu chất thơ, cụ thể và giàu sức khái quát
Giọng điệu tha thiết, trìu mến, bay bổng nhẹ nhàng, khúc triết, rành rọt... tạo ra sự cộng hưởng hài hòa
Ngôn từ bình dị, mộc mạc như lời nói thường ngày
Kết bài
Bài thơ là lời tâm tình của người cha nói với con cũng chính là lời nói chân thành, mộc
mạc của tác giả
.............................................

File đính kèm:

  • docxde_va_dap_an_luyen_thi_vao_lop_10_mon_ngu_van.docx