Đề thi tuyển sinh Lớp 10 THPT môn Ngữ văn - Năm học 2011-2012 - Sở giáo dục vào đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh (Có đáp án)

Câu 1: Truyện Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê được trần thuật từ nhân vật

nào ? Nêu tác dụng của việc chọn ngôi kể đó (1 điểm)

Câu 2: (1 điểm)

Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói

Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ

Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa

Óng tre ngà và mềm mại như tơ

(Tiếng Việt – Lưu Quang Vũ)

Tìm và gọi tên thành phần biệt lập trong đoạn thơ trên. Cho biết thành phần ấy

được dùng để làm gì trong đoạn thơ?

Câu 3: (3 điểm)

Trong loạt bài trên báo Tuổi trẻ chủ nhật bàn về thế hệ gấu bông có đề cập hai

hiện tượng:

1. Một cô bé mười lăm tuổi, được mẹ chở đi đánh cầu lông. Xe hai mẹ con bị

va quẹt, đồ đạc trên xe văng tung tóe. Người mẹ vội vàng gom nhặt, vài

người đi đường cũng dừng lại phụ giúp còn cô bé thờ ơ đứng nhìn. Đợi mẹ

nhặt xong mọi thứ, cô bé leo lên xe và thản nhiên dặn: “Lát về mẹ nhớ

mua cho con li chè!”.

2. Một cậu học sinh khi được hỏi về ca sĩ nổi tiếng mà cậu hâm mộ, cậu đã

trả lời rất rành mạch về cách ăn mặc, sở thích của ca sĩ đó. Nhưng khi

được hỏi về nghề nghiệp, sở thích của cha mẹ cậu, cậu ta ấp úng, không trả

lời được.

Là người con trong gia đình, em hãy trình bày suy nghĩ về hai hiện tượng

trên qua một bài văn ngắn (khoảng 01 trang giấy thi).

 

doc 4 trang cucpham 01/08/2022 2480
Bạn đang xem tài liệu "Đề thi tuyển sinh Lớp 10 THPT môn Ngữ văn - Năm học 2011-2012 - Sở giáo dục vào đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh (Có đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề thi tuyển sinh Lớp 10 THPT môn Ngữ văn - Năm học 2011-2012 - Sở giáo dục vào đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh (Có đáp án)

Đề thi tuyển sinh Lớp 10 THPT môn Ngữ văn - Năm học 2011-2012 - Sở giáo dục vào đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh (Có đáp án)
KÌ THI TUYỂN SINH LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Khóa ngày 21 tháng 06 năm 2012 tại TPHCM
Môn thi : VĂN
Thời gian: 120 phút (không tính thời gian giao đề)
ĐỀ CHÍNH THỨC
Câu 1: Truyện Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê được trần thuật từ nhân vật
nào ? Nêu tác dụng của việc chọn ngôi kể đó (1 điểm)
Câu 2: (1 điểm)
Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ
(Tiếng Việt – Lưu Quang Vũ)
Tìm và gọi tên thành phần biệt lập trong đoạn thơ trên. Cho biết thành phần ấy
được dùng để làm gì trong đoạn thơ?
Câu 3: (3 điểm)
Trong loạt bài trên báo Tuổi trẻ chủ nhật bàn về thế hệ gấu bông có đề cập hai
hiện tượng:
1. Một cô bé mười lăm tuổi, được mẹ chở đi đánh cầu lông. Xe hai mẹ con bị
va quẹt, đồ đạc trên xe văng tung tóe. Người mẹ vội vàng gom nhặt, vài
người đi đường cũng dừng lại phụ giúp còn cô bé thờ ơ đứng nhìn. Đợi mẹ
nhặt xong mọi thứ, cô bé leo lên xe và thản nhiên dặn: “Lát về mẹ nhớ
mua cho con li chè!”.
2. Một cậu học sinh khi được hỏi về ca sĩ nổi tiếng mà cậu hâm mộ, cậu đã
trả lời rất rành mạch về cách ăn mặc, sở thích của ca sĩ đó. Nhưng khi
được hỏi về nghề nghiệp, sở thích của cha mẹ cậu, cậu ta ấp úng, không trả
lời được.
Là người con trong gia đình, em hãy trình bày suy nghĩ về hai hiện tượng
trên qua một bài văn ngắn (khoảng 01 trang giấy thi).
Câu 4: (5 điểm)
Hãy chọn và phân tích một hoặc hai khổ thơ trong các bài thơ của chương
trình văn học Việt Nam hiện đại lớp 9 để nêu bật vẻ đẹp con người Việt Nam.
BÀI GIẢI GỢI Ý
Câu 1: Truyện Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê được trần thuật từ nhân vật
Phương Định, cô thanh niên xung phong làm công tác trinh sát mặt đường trong giai
đoạn kháng chiến chống Mỹ. Ngôi kể nói trên có tác dụng làm cho giọng kể có tính
chất tự nhiên, thoải mái, trẻ trung, phù hợp với đặc điểm của nhân vật. Ngoài ra, chọn
ngôi kể như thế sẽ làm tăng tính chất thuyết phục của tác phẩm (câu chuyện được kể
từ người trong cuộc) và thể hiện sống động tâm hồn nhạy cảm, lãng mạn của những
cô gái thanh niên xung phong trên đường Trường Sơn trong thời chống Mỹ, nhất là
của nhân vật chính : Phương Định.
Câu 2: Thành phần biệt lập trong đoạn thơ trên thể hiện ở từ “Ôi”. Đây là thành phần
cảm thán. Trong đoạn thơ nó được sử dụng để biểu hiện cảm xúc (lòng yêu mến) của
nhà thơ đối với tiếng Việt.
Câu 3:
Học sinh có thể làm nhiều cách khác nhau miễn là có đủ một số ý theo quy định.
Sau đây là một cách làm cụ thể:
· Mở bài: Đặt vấn đề: Sự vô tâm của thế hệ gấu bông đã làm giật mình các
bậc cha mẹ. Hai hiện tượng mà báo Tuổi trẻ Chủ nhật đã nêu là khá phổ
biến. Đó cũng là thể hiện của sự suy tàn về chữ hiếu và vi phạm nghiêmtrọng đạo đức con người Á Đông. Hai hiện tượng trên như một lời cảnh
tỉnh đối với bổn phận làm con của chúng ta.
· Thân bài:
+ Biểu hiện: Giải thích nội dung của hai hiện tượng trên nói lên sự vô tâm
của thế hệ trẻ đối với những người thân yêu nhất, có công nuôi dưỡng và
bảo bọc chúng ta từ khi mới sinh ra – đó là cha mẹ, ông bà, thầy cô giáo,
...Hình ảnh một em bé thờ ơ khi mẹ đi nhặt đồ và hồn nhiên nói: “Lát về
mẹ nhớ mua cho con li chè!” cũng như hình ảnh một cậu học sinh rất rành
về sở thích của ca sĩ cậu yêu thích mà chẳng biết gì về sở thích, nghề
nghiệp, tâm trạng và niềm đau của bố mẹ mình. Điều đó đã tạo nên sự
phản cảm mạnh mẽ trong tâm hồn người đọc.
+ Nguyên nhân:
_ Giới trẻ thường chỉ quan tâm tới cuộc sống và sở thích của mình, đó
là một trong những biểu hiện của thói ích kỉ.
_ Bậc cha mẹ thiếu sâu sát, thiếu quan tâm đúng mực đến hành vi, sở
thích và nhân cách của con.
_ Nhà trường và xã hội thiếu phương pháp giáo dục đúng mực, thiếu
những hoạt động để rèn luyện nhân cách của học sinh và gắn kết con cái với
cha mẹ.
_ Nhà trường và gia đình còn thờ ơ với việc giáo dục cẩn trọng về đạo
đức làm người và những đức tính như: hiếu thảo, lòng biết ơn, lòng nhân ái,
tính vị tha, khả năng chia sẻ với những người thân yêu, ...
+ Hậu quả:
_ Nếu không khắc phục được những hiện tượng này, xã hội càng ngày
càng trở nên băng hoại về đạo đức và sự vô cảm càng ngày càng trở nên
phổ biến.
_ Những hiện tượng trên là nhát dao cứa vào lương tâm của những
người Việt Nam có đạo đức, là nỗi đau dai dẳng cho thế hệ cha anh.
_ Những hiện tượng trên là sự xói mòn về đạo đức, là sự chạy theo
những nét đẹp phù phiếm và hư ảo, bỏ quên những nét đẹp chân thật và
những tình cảm thiêng liêng.
+ Cách khắc phục:
_ Chủ quan: bản thân mỗi con người phải ý thức về trách nhiệm của
mình đối với gia đình và xã hội, rèn luyện lòng nhân ái, lòng vị tha từ
những việc nhỏ nhặt nhất.
_ Khách quan: gia đình, nhà trường và xã hội nên chú trọng hơn về
việc giáo dục nhân cách cho học sinh, dạy học sinh biết quan tâm tới
những người thân yêu, gần gũi với mình, dạy học sinh biết cảm nhận vẻ
đẹp cùa lòng vị tha, sự chia sẻ, đồng cảm và lối sống có trách nhiệm.
_ Lên án mạnh mẽ lối sống thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm, ích kỉ.
· Kết bài: Hai hiện tượng trên đã đánh thức lương tâm của những người đã
từng mắc vào những lỗi lầm tương tự. Đó là hồi chuông cảnh tỉnh đối với
thế hệ trẻ nói riêng và đối với tất cả những người Việt Nam.
Câu 4: Đây là một đề làm văn có tính chất tự do. Nó cho phép người làm bài được tự
do lựa chọn đối tượng để phân tích. Tuy nhiên, người làm bài phải tôn trọng những
giới hạn được quy định trong đề. Thứ nhất, người làm bài chỉ được phép chọn một
hoặc hai khổ thơ (không được hơn hai khổ thơ hoặc cả bài). Một, hai khổ thơ đó phải
ở trong các bài thơ thuộc chương trình văn học Việt Nam hiện đại lớp 9 (Đồng chí,
Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Bếp lửa, Ánh trăng, Đoàn thuyền đánh cá, Mùa
xuân nho nhỏ, Viếng lăng Bác, Sang thu, Nói với con). Thứ hai, các khổ thơ được
chọn phải có nội dung liên quan tới vẻ đẹp của con người Việt Nam. Thứ ba, khi phân
tích, người làm bài phải có ý thức nêu bật được vẻ đẹp của con người Việt Nam trongmột hoặc hai khổ thơ nói trên. Những vi phạm các yêu cầu nói trên sẽ làm cho bài viết
rơi vào tình trạng xa đề, lan man hoặc lạc đề.
Để có được kết quả tốt, bài viết còn phải có bố cục rõ ràng. Bài viết không
mắc các lỗi về hành văn. Đặc biệt, phải thực hiện tốt thao tác phân tích một đoạn thơ,
phải phân tích những yếu tố nghệ thuật của thơ để làm rõ giá trị của nó.
Đây là một câu hỏi làm văn. Cho nên bài viết phải có đủ ba phần : mở bài,
thân bài, kết bài. Trong phần mở bài, nên giới thiệu tác giả, bài thơ và đặc biệt là một
hoặc hai khổ thơ được chọn để phân tích. Trong phần thân bài, cần giới thiệu vị trí của
phần thơ được chọn trong bài thơ, giới thiệu đại ý của phần thơ được chọn. Sau đó,
phân tích và làm rõ vẻ đẹp của con người Việt Nam trong phần thơ đó. Có thể, nhận
xét và đánh giá ý nghĩa của phần thơ đối với cả bài, đối với đề tài. Cuối cùng, trong
phần kết bài cần tổng kết khẳng định phần thơ thể hiện vẻ đẹp của con người Việt
Nam.
Có thể hình dung vẻ đẹp của con người Việt Nam qua các bài thơ như sau :
- Đồng chí : vẻ đẹp của tình đồng chí ở những con người xuất thân từ đồng
ruộng, gắn bó với nhau, lạc quan trong cuộc sống chiến đấu gian khổ.
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính : vẻ đẹp của người bộ đội lái xe trên
đường mòn Trường Sơn thời đánh Mỹ : ung dung, lạc quan, khí phách,
hiên ngang coi thường khó khăn gian khổ, yêu thương đất nước và miền
Nam ruột thịt.
- Đoàn thuyền đánh cá : vẻ đẹp của người lao động, của người ngư dân
trong công cuộc lao động xây dựng đất nước (lạc quan, chủ động, tích cực,
hào hùng, đầy ân tình).
- Bếp lửa : vẻ đẹp của tình bà cháu; vẻ đẹp của người bà, người phụ nữ Việt
Nam giàu lòng yêu thương (gia đình, đất nước), tần tảo hy sinh, chịu
thương chịu khó; tấm lòng biết ơn trân trọng của cháu đối với bà.
- Ánh trăng : vẻ đẹp của con người Việt Nam thể hiện trong sự gắn bó ân
tình của con người với thiên nhiên, trong lời nhắc nhở phải biết thủy
chung, uống nước nhớ nguồn.
- Mùa xuân nho nhỏ : vẻ đẹp của con người Việt Nam: yêu thiên nhiên;
hăng hái tích cực trong lao động xây dựng đất nước và chiến đấu bảo vệ tổ
quốc; vẻ đẹp của con người nguyện cống hiến cả đời cho đất nước, nguyện
làm một “mùa xuân nho nhỏ” cho đời.
- Viếng lăng Bác : vẻ đẹp của Bác Hồ, “mặt trời trong lăng rất đỏ”; vẻ đẹp
của tấm lòng trân trọng, kính yêu đối với Bác Hồ.
- Sang thu : vẻ đẹp của một tâm hồn nhạy cảm trước sự biến chuyển của
thiên nhiên trong lúc giao mùa.
- Nói với con : vẻ đẹp của con người Việt Nam được thể hiện trong lời tâm
tình, nhắn nhủ của người cha đối với con : phải biết yêu quý gắn bó với gia
đình, với quê hương, với đất nước; phải biết tự hào về vẻ đẹp của truyền
thống, của đất nước; phải sống xứng đáng với gia đình, với đất nước.
Đây là một số gợi ý chung của cả bài. Mỗi phần thơ được chọn sẽ có nội dung
cụ thể. Người làm bài sẽ căn cứ vào phần thơ đó phân tích để làm rõ vẻ đẹp cụ thể
được biểu hiện trong phần thơ.
Nguyễn Hữu Dương
(Trường THPT Vĩnh Viễn – TP.HCM)

File đính kèm:

  • docde_thi_tuyen_sinh_lop_10_thpt_mon_ngu_van_nam_hoc_2011_2012.doc