Dàn ý phân tích đoạn trích "Chị em Thúy Kiều"
Bốn câu thơ đầu: Vẻ đẹp chung của hai chị em Thúy Kiều
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
- « Tố nga » : là hình ảnh ẩn dụ, ước lệ, tượng trưng →chỉ người con gái đẹp, Kiều và Vân như hai vầng trăng mát dịu, đang ở lứa tuổi trăng tròn (tuổi cập kê), thời thanh xuân rực rỡ đẹp nhất của đời người con gái
-Hai nàng là con gái đầu gia đình họ Vương.
-Phép tiểu đối tạo nên sự cân xứng, nhịp thơ 4/4, liệt kê và điệp từ « là » : giới thiệu vị trí, thứ bậc của hai chị em trong gia đình: Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em gái.
- “Mai cốt cách tuyết tinh thần”: nhịp thơ 3/3, phép tiểu đối, bút pháp ước lệ tượng trưng, ẩn dụ gợi vẻ thanh cao duyên dáng, trong trắng của hai chị em. Lấy hình ảnh của thiên nhiên làm chuẩn mực để diễn tả vẻ đẹp của con người.
+Mai cốt cách: đó là cốt cách(phong thái, dáng vẻ) cao sang, quý phái, thanh thanh tao, mảnh dẻ như mai,
+Tuyết tinh thần: tâm hồn trắng trong, thanh sạch như tuyết
- “Mỗi người một vẻ” :cho thấy nét riêng từ nhan sắc, tính cách, tâm hồn của mỗi người.
-Thành ngữ “mười phân vẹn mười: đã tô đậm được vẻ đẹp đến độ toàn diện, hoàn hảo của hai chị em.
Tuy mỗi người mang nét riêng nhưng cả hai đều sở hữu một vẻ đẹp toàn diện không ai sánh bằng, vẻ đẹp khiến hoa nhường nguyệt thẹn, say đắm lòng người.
→Tác giả sử dụng hình ảnh ước lệ, ẩn dụ, tiểu đối, thành ngữ để giới thiệu về lai lịch, vị trí và khái quát vẻ đẹp của 2 chị em.
Bằng cách phối hợp các biện pháp nghệ thuật, tác giả đã giới thiệu ngắn gọn nhưng đầy đủ và mang đến những ấn tượng đậm nét về hai chị em, tô đậm vẻ đẹp chung hoàn hảo của Thúy Vân và Thúy Kiều.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Dàn ý phân tích đoạn trích "Chị em Thúy Kiều"
DÀN Ý-CHỊ EM THÚY KIỀU (Trích TRUYỆN KIỀU-NGUYỄN DU) I.Đọc-tìm hiểu chung: 1.Tác giả-tác phẩm: -Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Ông để lại cho đời một khối lượng tác phẩm rất đồ sộ trong đó nổi bật nhất là kiệt tác ”Truyện Kiều”. -Tác phẩm này đã phản ánh bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị chà đạp lên quyền sống của con người, phơi bày nỗi khổ đau của những con người bị áp bức, đặc biệt là người phụ nữ. -Qua đó, tác giả bộc lộ niềm thương cảm sâu sắc trước số phận bi kịch của con người, tố cáo các thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của những con người lương thiện, khiến họ khổ sở điêu đứng. Đồng thời, tác giả cũng trân trọng đề cao vẻ đẹp, ước mơ và khát vọng chân chính của con người. -Với “Truyện Kiều”, ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát đạt tới đỉnh cao rực rỡ, nghệ thuật tự sự đã có sự phát triển vượt bậc. 2.Đoạn trích a. Vị trí đoạn trích Đoạn trích nằm ở phần mở đầu của tác phẩm “Truyện Kiều”: Gặp gỡ và đính ước b. Bố cục - Đoạn 1 (4 câu đầu): Khái quát về hai chị em Thúy Kiều - Đoạn 2 (4 câu tiếp): Vẻ đẹp Thúy Vân - Đoạn 3 (12 câu tiếp): Vẻ đẹp và tài năng củaThúy Kiều - Đoạn 4 (4 câu cuối): Nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em. -Đoạn trích đã giới thiệu chung và miêu tả chân dung tuyệt mĩ của chị em Thúy Kiều, ca ngợi vẻ đẹp, tài năng và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của Thúy Kiều. -Qua đó, tác giả thể hiện cảm hứng nhân văn sâu sắc: trân trọng, đề cao, ca ngợi vẻ đẹp của con người. II. Đọc-hiểu văn bản: 1. Bốn câu thơ đầu: Vẻ đẹp chung của hai chị em Thúy Kiều Đầu lòng hai ả tố nga Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân Mai cốt cách, tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười - « Tố nga » : là hình ảnh ẩn dụ, ước lệ, tượng trưng →chỉ người con gái đẹp, Kiều và Vân như hai vầng trăng mát dịu, đang ở lứa tuổi trăng tròn (tuổi cập kê), thời thanh xuân rực rỡ đẹp nhất của đời người con gái -Hai nàng là con gái đầu gia đình họ Vương. -Phép tiểu đối tạo nên sự cân xứng, nhịp thơ 4/4, liệt kê và điệp từ « là » : giới thiệu vị trí, thứ bậc của hai chị em trong gia đình: Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em gái. - “Mai cốt cách tuyết tinh thần”: nhịp thơ 3/3, phép tiểu đối, bút pháp ước lệ tượng trưng, ẩn dụ gợi vẻ thanh cao duyên dáng, trong trắng của hai chị em. Lấy hình ảnh của thiên nhiên làm chuẩn mực để diễn tả vẻ đẹp của con người. +Mai cốt cách: đó là cốt cách(phong thái, dáng vẻ) cao sang, quý phái, thanh thanh tao, mảnh dẻ như mai, +Tuyết tinh thần: tâm hồn trắng trong, thanh sạch như tuyết - “Mỗi người một vẻ” :cho thấy nét riêng từ nhan sắc, tính cách, tâm hồn của mỗi người. -Thành ngữ “mười phân vẹn mười: đã tô đậm được vẻ đẹp đến độ toàn diện, hoàn hảo của hai chị em. Tuy mỗi người mang nét riêng nhưng cả hai đều sở hữu một vẻ đẹp toàn diện không ai sánh bằng, vẻ đẹp khiến hoa nhường nguyệt thẹn, say đắm lòng người. →Tác giả sử dụng hình ảnh ước lệ, ẩn dụ, tiểu đối, thành ngữ để giới thiệu về lai lịch, vị trí và khái quát vẻ đẹp của 2 chị em. Bằng cách phối hợp các biện pháp nghệ thuật, tác giả đã giới thiệu ngắn gọn nhưng đầy đủ và mang đến những ấn tượng đậm nét về hai chị em, tô đậm vẻ đẹp chung hoàn hảo của Thúy Vân và Thúy Kiều. 2. Bốn câu tiếp theo: Vẻ đẹp Thúy Vân Bốn câu thơ tiếp theo, miêu tả vẻ đẹp làm say mê lòng người của Thúy Vân: “Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.” -Mỗi câu thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung của giai nhân. - Câu thơ đầu tiên giới thiệu khái quát phong thái của Thúy Vân + Từ “xem” thể hiện sự đánh giá mang tính chủ quan của người miêu tả +Từ láy“trang trọng”: vẻ đẹp cao sang quý phái, chỉ vẻ đoan trang, thùy mị, dịu dàng của người con gái – Vẻ đẹp của Thúy Vân được so sánh với hình ảnh thiên nhiên: trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết. – Nghệ thuật: ẩn dụ, ước lệ, liệt kê: miêu tả khuôn mặt, đôi mày, mái tóc, làn da, nụ cười, giọng nói của Thúy Vân. -“Khuôn trăng”, “nét ngài” là hai hình ảnh ước lệ, tượng trưng, ẩn dụ gợi lên một khuôn mặt phúc hậu, tươi sáng, trẻ trung như trăng rằm, lông mày sắc nét, đậm như con ngài . Câu thơ gợi nhớ đến thành ngữ “mắt phượng mày ngài”, gợi tả đôi mắt đẹp theo quan niệm thẩm mĩ thời trung đại. -Các từ láy “ đầy đặn”, “ nở nang” sử dụng thật giản dị nhưng sức diễn tả lại rất lớn; nó không chỉ gợi tả sự đầy đặn, nở nang của dáng vẻ bên ngoài mà đây còn là sự đầy đặn, mĩ mãn của số phận, cuộc đời nàng. -Hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ: hoa cười, ngọc thốt: nụ cười tươi như hoa, khuôn mặt như đẹp hơn, rạng rỡ và tươi sáng hơn khi Thuý Vân cười. Giọng nói trong trẻo, thánh thót như nhả ngọc phun châu, êm tai, dễ nghe, nói lời hay ý đẹp. -Mái tóc của Vân óng ả, bồng bềnh, mềm mại hơn cả mây, làn da của nàng mịn màng, trắng sáng hơn cả tuyết. -Câu thơ nhấn mạnh vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu, quý phái của Thúy Vân. Vẻ đẹp đó tạo nên một sự hoà hợp với thế giới xung quanh nên thiên nhiên sẵn sàng chấp nhận chịu “thua”, chịu “nhường”. -Nghệ thuật nhân hoá “ thua”, “nhường” được sử dụng thật hiệu quả làm cho thiên nhiên như có tính cách của con người. Nguyễn Du đã sử dụng rất có chọn lọc hai động từ “thua” và “nhường”. –> Vẻ đẹp tạo sự hòa hợp, êm đềm với thiên nhiên “mây thua”, “tuyết nhường” dự báo cuộc đời bình lặng, suôn sẻ. ═˃Bốn dòng thơ đã sử dụng thành công nhiều biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, liệt kê, tiểu đối, nói quá và cách dùng các từ láy, từ Hán Việt điêu luyện. Đặc biệt bút pháp ước lệ tượng trưng đã phát huy tác dụng. “Trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết” – những tinh hoa của tạo hóa được dùng để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân. Từ bức chân dung ngoại hình của Thúy Vân, ta thấy được tính cách và số phận của nàng: tính cách rất trầm tĩnh, dịu dàng, đoan trang, phúc hậu. Qua đó, Nguyễn Du không chỉ vẽ nên một sắc đẹp tươi tắn, trẻ trung, kiều diễm của một cô gái đang độ trăng tròn mà còn dự báo số phận bình an, êm đềm của Thúy Vân trên những chặng đường đời. Điều này đã phần nào thể hiện được con mắt nhìn người sâu sắc và nghệ thuật miêu tả bậc thầy của Nguyễn Du. 3. Mười hai câu tiếp: Vẻ đẹp và tài năng của Thúy Kiều Với Thúy Vân ta tưởng như vẻ đẹp của nàng đã là hoàn mỹ nhưng khi Kiều xuất hiện, Thúy Vân chỉ còn là bức phông nền để tôn lên vẻ đẹp của Kiều: “Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn” -Từ “càng” đứng trước từ láy liên tiếp: “sắc sảo”, “mặn mà” để tô đậm vẻ đẹp “sắc sảo” về trí tuệ và vẻ “mặn mà” về nhan sắc, tâm hồn của Thúy Kiều. -Nghệ thuật: so sánh, đòn bẩy (vẽ mây nẩy trăng) được sử dụng một cách tài tình: “So bề tài sắc lại là phần hơn”. Tuy “mỗi người một vẻ” nhưng Thúy Kiều đẹp hơn và có tài hơn Thúy Vân. ->Không tả một cách cụ thể, nhưng Nguyễn Du đã khắc sâu trong tâm trí người đọc một ấn tượng sâu sắc vẻ đẹp vượt trội của Thúy Kiều. Đây chính là sự tài hoa và tài tình của Nguyễn Du. a, Vẻ đẹp nhan sắc: Khác với Thúy Vân, tác giả không miêu tả cụ thể, chi tiết mà chỉ đặc tả đôi mắt theo lối “điểm nhãn”, tức là vẽ hồn chân dung bằng những hình ảnh mang tính ước lệ: “Làn thu thủy, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” +Phép tiểu đối, ẩn dụ, ước lệ tượng trưng: Làn thu thủy/nét xuân sơn + “Làn thu thủy”: đôi mắt trong sáng, tĩnh lặng, sâu thẳm, huyền ảo như làn nước mùa thu, gợi tả đôi mắt đẹp, thu hút. + “Nét xuân sơn”: đôi lông mày thanh tú, xinh đẹp, căng tràn sức sống như dáng núi mùa xuân. ->Không cần phải nhiều nét, nhưng bức chân dung của nhân vật Thúy Kiều vẫn hiện lên với những gì hoàn mĩ nhất. Đôi mắt không chỉ là vẻ đẹp bên ngoài mà đó còn là cửa sổ thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Đó cũng chính là cách tả truyền thống trong văn học trung đại; nét đậm đan xen với nét nhạt, chỗ tỉ mỉ, chỗ chấm phá. -Hình ảnh nhân hóa: “hoa ghen” và “liễu hờn” thể hiện thái độ của thiên nhiên trước vẻ đẹp của Kiều. Hoa phải ghen vì thua sắc thắm, liễu phải hờn vì kém xanh tươi, không căng tràn sức sống như Kiều. -Nguyễn Du không tả trực tiếp vẻ đẹp của Kiều mà tả sự đố kị, ghen ghét của thiên nhiên để khẳng định cho vẻ đẹp của một tuyệt thế giai nhân. -Nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, nhân hoá, tiểu đối trong câu thơ này đựợc sử dụng một cách tài tình khiến cho tính chất đố kị giữa vẻ đẹp của Kiều và thiên nhiên càng tăng thêm gấp bội. “Một hai nghiêng nước nghiêng thành” Sắc đành đòi một, tài đành họa hai” -Vẻ đẹp của Kiều không chỉ khiến cho hoa phải “ghen”, liễu phải “hờn” mà còn khiến cho nước phải nghiêng, thành phải đổ. Sắc đẹp của nàng khiến người ta ngưỡng mộ, mê say đến điên đảo. +“Nghiêng nước nghiêng thành” còn là cách nói sáng tạo từ điển cố “nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc” (nghoảnh lại nhìn một lần thì làm nghiêng thành người, nghoảnh lại nhìn lần nữa thì làm nghiêng nước người) để cực tả vẻ đẹp của bậc tuyệt sắc giai nhân. +Sắc đành đòi một: sắc đẹp của nàng có một không hai +Tài đành họa hai: về tài năng thì may ra có người thứ hai -Vẻ đẹp, chân dung của Thúy Kiều cũng dự báo về tính cách và số phận của nàng: Cái đẹp của Kiều không hài hòa mà vượt qua mọi khuôn khổ, chuẩn mực phép tắc của tạo hóa, xã hội. Vì vậy khiến cho thiên nhiên phải ghen ghét, oán hận, đố kị. Nó dự báo về một tính cách, tâm hồn đa sầu, đa cảm, một số phận sóng gió, một cuộc đời truân chuyên “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen/Hồng nhan bạc mệnh”. ->Vẻ đẹp nhan sắc của Thúy Kiều mang một ấn tượng mạnh, đó là vẻ đẹp của một tuyệt thế giai nhân. b, Vẻ đẹp của tài năng và tâm hồn Không chỉ miêu tả là một giai nhân tuyệt thế, Nguyễn Du còn cho thấy nàng là người phụ nữ thông minh, có trí tuệ thiên bẩm và rất đa tài: “Thông minh vốn sẵn tính trời, Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm Cung thương làu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương” ->Đây là một sự táo bạo của Nguyễn Du khi ông coi trí tuệ của người phụ nữ cũng là một phương diện để ca ngợi. Người phụ nữ trong khuôn khổ của xã hội phong kiến là “tam tòng, tứ đức”, là “công, dung, ngôn, hạnh”, là “cầm, kì, thi, họa” và không hề có phương diện thông minh. Cho nên sự thông minh của Kiều được đặt trong bối cảnh của xã hội phong kiến lúc bấy giờ là một sự bứt phá, dũng cảm và táo bạo của Nguyễn Du. Ông đã đưa Kiều vượt khỏi những khuôn mẫu chuẩn mực của xã hội phong kiến. - Nàng là người con gái đa tài, nàng giỏi cả bốn phương diện: cầm (đàn), kì (cờ),thi (làm thơ) họa (vẽ tranh). Tài năng nào nàng cũng đạt đến độ xuất chúng. Trong xã hội phong kiến xưa, một người con gái chỉ cần giỏi một trong bốn tài năng trên là đã trở thành người tài danh xuất chúng được mọi người ngưỡng mộ, ngợi ca. Tài năng của Kiều đã vượt trên mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến. Đặc biệt, tài đánh đàn đã được Nguyễn Du tập trung miêu tả. + Đó là năng khiếu, là sở trường của nàng, tài đàn của nàng điêu luyện và vượt lên trên mọi người: “Làu bậc ngũ âm”, “ăn đứt hồ cầm” + Không chỉ vậy, nàng còn giỏi cả sáng tác. “Bạc mệnh” chính là khúc nhạc mà nàng tự viết, khi tiếng đàn cất lên ai cũng xúc động, chau mày rơi lệ, cảm động lòng người. - Miêu tả tài đàn cũng là một cách mà Nguyễn Du tập trung gợi lên một thế giới tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, đa sầu, đa cảm của Thúy Kiều. - Đặc biệt cung đàn “Bạc mệnh” như dự báo trước cuộc đời hồng nhan bạc mệnh, “tài mệnh tương đố” khó tránh khỏi của nàng. →Qua mười hai câu thơ, chúng ta thấy được vẻ đẹp hội tụ sắc-tài-tình, tất cả đều đến mức lí tưởng, xuất chúng của Thúy Kiều. Đồng thời, cho thấy sự tài hoa của Nguyễn Du trong nghệ thuật miêu tả nhân vật. =>Vẽ chân dung Thuý Kiều cũng như Thuý Vân, Nguyễn Du vẫn sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng quen thuộc trong thơ Nôm thời trung đại. Tuy vậy, bức chân dung mỗi nhân vật vẫn hiện lên rất sống động, có hồn, nét nào cũng hoàn hảo, lí tưởng, cao quý. Giáo sư Đặng Thanh Lê đã nhận xét: Nguyễn Du khắc hoạ chân dung Thuý Kiều, Thuý Vân để “thể hiện khuynh hướng tâm lí hoá ngoại hình và hơn thế nữa khuynh hướng thân phận hoá phẩm cách nhân vật”. 4. Bốn câu cuối: Nhận xét chung về cuộc sống và phẩm hạnh của hai chị em - Hai chị em Thúy Vân, Thúy kiều không chỉ là những bậc tuyệt thế giai nhân mà họ còn là những đức hạnh và sống có khuôn phép: “Phong lưu rất mực hồng quần, Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai.” + Gia cảnh: Họ sống trong một gia đình “phong lưu”, khuôn phép, nề nếp, cuộc sống ấm êm, đầy đủ. + Cuộc sống: Êm đềm, bình lặng, kín đáo trong “trướng rủ màn che”→nghệ thuật đảo ngữ, thành ngữ +Thành ngữ “trướng rủ màn che”: nói về cuộc sống kín đáo của con nhà gia giáo, sống trong 4 bức tường khép kín để học nữ công, nữ tắc + “Xuân xanh xấp xỉ”, “tuần cập kê” gợi đến cái tuổi “tóc búi, trâm cài” của cả hai chị em. +Ong bướm: là hình ảnh ẩn dụ nói về những kẻ tán tỉnh phụ nữ, “mặc ai”: không quan tâm không để ý. Tuy ở lứa tuổi thiếu nữ nhiều mộng mơ, rung động song họ vẫn sống một cuộc sống kín đáo, gia giáo sau bốn bức tường khép kín chưa từng biết đến chuyện nam nữ, ong bướm lả lơi. -> Với việc dùng một loạt từ Hán – Việt: “Phong lưu”, “hồng quần”, “cập kê” và thành ngữ tiếng Việt “trướng rủ màn che”, tác giả đã nhấn mạnh cả hai chị em đã đến tuổi yêu, tuổi lấy chồng. Hai chị em họ vẫn là những thiếu nữ có tâm hồn trong trắng như hai bông hoa vẫn còn trong nhụy, sống trong cảnh êm đềm và chưa một lần hương tỏa vì ai, đúng với khuôn phép, mẫu mực của lễ giáo phong kiến. - Gợi tả vẻ đẹp của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều, Nguyễn Du đã trân trọng, đề cao những giá trị, vẻ đẹp của con người như nhan sắc, tài hoa, phẩm hạnh, khát vọng ý thức về thân phận, nhân phẩm cá nhân. - Bên cạnh việc trân trọng cái đẹp là những dự cảm đầy xót thương về kiếp người hồng nhan bạc mệnh, tài mệnh tương đố của Nguyễn Du. Đó chính là biểu hiện của tấm lòng thương cảm sâu sắc, tràn đầy cảm hứng nhân văn với con người của Nguyễn Du III.Tổng kết -Bằng một thế giới ngôn ngữ phong phú , tinh tế, kỳ diệu, bằng một bút pháp điêu luyện, bằng một thiên tài khám phá tuyệt vời kết hợp với lòng thương yêu của con người sâu sắc, nhất là người phụ nữ, Nguyễn Du vẽ lên những bức chân dung vừa xinh đẹp , vừa có sức gợi cảm mãnh liệt của Thúy Vân và Thúy Kiều trong trích đoạn “Chị em Thúy Kiều”. -Có thế nói rằng, đây là lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà, hình ảnh người phụ nữ hoàn mĩ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện dưới ngòi bút của thiên tài Nguyễn Du một cách say sưa, nồng nhiệt và trân trọng nhất. Càng nâng niu, yêu quý “Truyện Kiều”, chúng ta càng cảm phục tài năng và đức độ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. -Tóm lại, đoạn thơ nói về “Chị em Thuý kiều” là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong Truyện Kiều. Nó đã để lại cho người đọc biết bao rung cảm thẩm mĩ. Đoạn trích thể hiện một tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Du. Ngôn ngữ cô đúc, lời thơ giàu cảm xúc. Các phép tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hoá, nghệ thuật đòn bẩy.được Nguyễn Du vận dụng một cách tài tình. Vì thế, dù ông sử dụng ngôn ngữ hình ảnh ước lệ, tượng trưng, nhưng bức chân dung của hai thiếu nữ Vân – Kiều vẫn hiện lên một cách cụ thể hấp dẫn, sinh động và có hồn. Hàm ẩn sau bức chân dung mĩ nhân là cả một tấm lòng trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp con người là một trong những biểu hiện của cảm hứng nhân đạo ở Truyện Kiều.
File đính kèm:
- dan_y_phan_tich_doan_trich_chi_em_thuy_kieu.docx