Chuyên đề Đất nước - Tác giả: Nguyễn khoa điềm

Tác giả:

Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, ông trở lại miền Nam hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên thành phố Huế. Nguyễn Khoa Điềm từng giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của Nhà nước. Năm 2006, ông nghỉ hưu, về sống tại Huế và tiếp tục làm thơ.

Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Khác với những nhà thơ cùng thời như Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh ., Nguyễn Khoa Điềm thể hiện một phong cách thơ trữ tình – chính luận. Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm lắng đọng, thể hiện tâm tư, ý thức của một công dân yêu nước đối với vai trò, trách nhiệm của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc chiến đấu chung của cả dân tộc, thể hiện những nhận thức sâu sắc về nhân dân, đất nước qua những trải nghiệm của chính mình.

Tác phẩm chính của Nguyễn Khoa Điềm là các tập thơ : Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007). Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật

 

docx 9 trang cucpham 02/08/2022 360
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Đất nước - Tác giả: Nguyễn khoa điềm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Đất nước - Tác giả: Nguyễn khoa điềm

Chuyên đề Đất nước - Tác giả: Nguyễn khoa điềm
CHUYÊN ĐỀ ĐẤT NƯỚC - NGUYỄN KHOA ĐIỀM
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN: 
I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM:
1. Tác giả: 
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên  Huế. Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, ông trở lại miền Nam hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên thành phố Huế. Nguyễn Khoa Điềm từng giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của Nhà nước. Năm 2006, ông nghỉ hưu, về sống tại Huế và tiếp tục làm thơ.
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Khác với những nhà thơ cùng thời như Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh., Nguyễn Khoa Điềm thể hiện một phong cách thơ trữ tình – chính luận. Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm lắng đọng, thể hiện tâm tư, ý thức của một công dân yêu nước đối với vai trò, trách nhiệm của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc chiến đấu chung của cả dân tộc, thể hiện những nhận thức sâu sắc về nhân dân, đất nước qua những trải nghiệm của chính mình. 
Tác phẩm chính của Nguyễn Khoa Điềm là các tập thơ : Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007). Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật
2. Tác phẩm: 
a) Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ đoạn trích:
Trường ca “Mặt đường khát vọng” được sáng tác trong thời kì tác giả sống và làm việc tại chiến khu Trị - Thiên từ 1971 và được xuất bản năm 1974 với nội dung nói về sự thức tỉnh của tầng lớp thanh niên đô thị vùng tạm chiếm trước bước ngoặt lịch sử của dân tộc, trong cuộc đối đầu giữa chính nghĩa và phi nghĩa để giành độc lập hòa bình cho Tổ quốc, cho dân tộc, về sứ mệnh của lớp người trẻ tuổi đối với đất nước. Đoạn trích “Đất Nước” thuộc phần đầu chương V của trường ca này, với cảm hứng chủ đạo là đất nước của nhân dân, là đoạn tiêu biểu của “Mặt đường khát vọng”. 
b) Đề tài:
Đoạn trích “Đất Nước” mang lại cái nhìn mới mẻ về đất nước, một đề tài quen thuộc trong văn học Việt Nam, mà qua đó đất nước hiện ra với vẻ đẹp nhiều chiều từ lịch sử, văn hóa, địa lí,để từ đó, tác giả khái quát Đất nước là kết tinh của quá trình đấu tranh lâu dài của dân tộc, là sự hội tụ của khát vọng của nhân dân và chính nhân dân là người làm nên đất nước, “Đất nước là của nhân dân”.
c) Bố cục: Đoạn trích có thể chia làm hai phần:
- Phần 1: Tác giả đã tự đặt ra và trả lời hai câu hỏi: Đất Nước có từ bao giờ? (từ đầu đến “Đất Nước có từ ngày đó”) và Đất Nước là gì? (tiếp theo đến “Làm nên Đất Nước muôn đời). 
Tóm lại, phần 1: Cách cảm nhận và lí giải của nhà thơ về Đất nước.
- Phần 2: Từ những tiền đề ở phần 1, nhà thơ tiếp tục suy nghĩ: Vậy, ai đã làm nên Đất Nước? (hay Đất Nước này do ai làm nên?). 
Tóm lại, phần 2: Nhà thơ tập trung thể hiện tư tưởng đất nước là của nhân dân.
II. PHÂN TÍCH VĂN BẢN (ĐOẠN TRÍCH):
* PHẦN 1:
1. Đất Nước có từ bao giờ?
- Tùy theo từng thời kì lịch sử, Đất Nước được định nghĩa theo những cách quan niệm khác nhau, Đất nước có thể thiêng liêng khi đó là nơi “Nam đế cư”, Đất nước có thể hiện ra trong những khái niệm trừu tượng như trong đoạn đầu của “Bình Ngô đại cáo” thế kỉ XV với “nền văn hiến đã lâu, núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác”. Văn học hiện đại cũng thường tạo ra một khoảng cách sử thi thiêng liêng, tôn kính để chiêm ngưỡng Đất Nước thông qua những hình ảnh kì vĩ, tráng lệ, mang đậm tính biểu tượng, Đất Nước có thể huy hoàng khi “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, có thể hoành tráng “Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn; Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều” (Nguyễn Đình Thi), Đất Nước được nhìn qua những trang sử hào hùng trong “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?” của Chế Lan Viên; Đất Nước cũng có thể đẹp lung linh, kì ảo, xa vời trong so sánh: “Đất nước như vì sao – Cứ đi lên phía trước” (Thanh Hải).Trong khi đó, tác giả “Mặt đường khát vọng” lại đến với Đất Nước ở “muôn mặt đời thường” - những gì bình dị nhất, gần gũi nhất và thân quen nhất trong đời sống hằng ngày của mỗi người Việt Nam chúng ta:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
.
Đất Nước có từ ngày đó”
- Câu thơ mở đầu khúc ca, nhà thơ đưa người đọc trở về với cội nguồn của đất nước: Đất Nước có từ bao giờ?:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.”
Đại từ “Ta” vừa là nhân vật trữ tình, vừa là mỗi chúng ta – những người dân đất Việt. Đúng là, khi mỗi chúng ta lớn lên, đất nước đã có rồi. Dù chưa đủ trí tuệ để hiểu đất nước với những khái niệm trừu tượng như cương vực, lãnh thổ, chủ quyền, nhưng mỗi chúng ta cũng đã cảm nhận được đất nước là một cái gì đó rất gần gũi, qua những câu chuyện truyền thuyết, cổ tích mẹ thường kể từ thuở nằm nôi. Lời thơ “ngày xửa ngày xưa” mang điệu hò của những câu chuyện huyền thọai, đưa ta về một thuở rất xa, khi đất nước khai thiên lập địa. Những từ “bắt đầu, lớn lên” tuy không xác định thời gian cụ thể nhưng lại khẳng định quá trình hình thành lâu đời của Đất Nước.
- Đất nước được khởi đầu cùng với sự ra đời của những nét phong tục, tập quán rất đẹp của nhân dân ta suốt mấy ngàn năm qua: Đất Nước được hình thành từ những truyền thống cao đẹp như truyền thống yêu nước, lao động, văn hóa. Trước hết là truyền thống văn hóa phong tục lâu đời của nhân dân. Từ “miếng trầu” dung dị của bà, mái tóc bới hiền hòa của mẹ, cách gọi tên “cái kèo, cái cột” dân dã đến tình yêu gắn bó thủy chung qua “gừng cay muối mặn” của cha mẹ. Tất cả những điều tưởng chừng như bình thường ấy đã trở thành nếp sống, thành phẩm chất tốt đẹp, thành thuần phong mĩ tục đậm đà bản sắc Việt Nam.
- Đất nước được lớn lên từ truyền thống yêu nước kiên cường của dân tộc:
Câu thơ “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” gợi nhớ truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre làng đánh giặc Ân thuở xa xưa. Truyền thống yêu nước, bền bỉ kiên cường giữ nước luôn được khơi dậy qua những lời kể đậm đà của mẹ và trở thành hồn thiêng dân tộc.
- Đất nước được trưởng thành từ truyền thống lao động cần cù của nhân dân ta:
Ông bà, cha mẹ chúng ta đã phải trải qua bao gian nan “một nắng hai sương”, đã đổ bao mồ hôi với bao công việc nhà nông nhọc nhằn “xay, giã, giần, sàng” mới làm ra hạt gạo dẻo thơm. Hạt gạo là vật chất, nhưng cũng là sự sống, là cội nguồn văn hóa của dân tộc. Truyền thống lao động cần cù từ bao đời của nhân dân cũng là một phần của hồn Nước.
* Tiểu kết:
Chín dòng thơ đầu là những cảm nhận mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về sự khởi đầu và quá trình trưởng thành, phát triển lâu đời của Đất Nước. Đất nước được cảm nhận một cách cụ thể trong những cái hằng ngày như “miếng trầu, hạt gạo”, trong những gương mặt dung dị, đời thường của nhân dân, trong mối quan hệ ruột rà , thân thuộc như “ông – bà”, “cha – mẹ”, ngay trong mái nhà của mỗi chúng ta cũng hiện diện dáng hình Đất Nước. Ẩn trong đó là tình yêu nước thiết tha, niềm tự hào về đất nước thân thương, gần gũi. Hình ảnh thơ hàm súc, giàu chất liệu văn hóa, văn học dân gian nên có sức lắng đọng sâu sắc. Những chất liệu dân gian ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ sức gợi lên một hồn thiêng sông núi. Điều đó không đơn thuần chỉ là thủ pháp nghệ thuật, cũng không phải là một mô-típ sáng tạo văn học dân gian. Có thể nói, tư tưởng “đất nước của nhân dân” – tư tưởng chủ đạo của trang thơ đã thấm nhuần từ quan điểm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của tác phẩm.
2. Đất Nước là gì?
Tiếp tục mạch chính luận – trữ tình, Nguyễn Khoa Điềm đã tự đặt ra và trả lời câu hỏi: “Đất Nước là gì?”:
“Đất là nơi anh đến trường
Làm nên Đất Nước muôn đời”
a) Trong đoạn thơ này, tác giả đã mượn hình thức trò chuyện, tâm tình với một người con gái yêu thương, để định nghĩa đất nước theo cách riêng của mình, theo cách đặc biệt của thơ trữ tình – chính luận. Nguyễn Khoa Điềm đã khai thác cách cấu tạo từ tiếng Việt - từ ghép “đất nước” - đã tách “Đất Nước” thành hai thành tố “Đất” và “Nước” rồi lại hợp nhất trong một chỉnh thể thống nhất hài hòa, để có thể đi sâu vào khái niệm, biến khái niệm “Đất Nước” trừu tượng thành cụ thể, gợi cảm vừa riêng tư, gần gũi vừa lớn lao, cao cả, thiêng liêng.
- Đất Nước với Nguyễn Khoa Điềm, trước hết là những không gian rất gần gũi, thân thương với cuộc sống của mỗi người:
“Đất là nơi anh đến trường
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Ý thơ rất mới mẻ, cụ thể làm cho Đất Nước trở thành gần gũi, thân thương, gắn bó với mỗi người. Thân thương như mái trường ta học, như dòng sông em tắm, như góc phố, đình làng, ao sen, lũy tre, cây đa, bến nước – nơi lứa đôi hò hẹn. Một không gian nhỏ, chỉ hai người biết, rất riêng tư thầm kín nhưng cũng đậm đà hồn quê hương xứ sở. Đất nước còn thân thương như câu ca dao tình yêu quen thuộc cất lên từ mỗi xóm làng:
“Khăn thương nhớ ai - Khăn rơi xuống đất
Khăng thương nhớ ai - Khăn vắt lên vai”
- Không chỉ tái hiện đất nước qua những hình ảnh cụ thể gắn với những không gian cụ thể mà tác giả còn cho thấy vẻ đẹp của “Đất Nước” mình thật mênh mông, kì vĩ. Vẫn mạch cảm xúc thiết tha, nhà thơ say sưa lí giải:
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
Lấy ý từ những câu dân ca Huế mượt mà, câu thơ đưa người đọc về với không gian của núi sông, rừng bể kì vĩ mà trở nên thân thương, gần gũi. Những từ “núi bạc, biển khơi” mang âm hưởng thành ngữ dân gian “rừng vàng biển bạc”, gợi ra một đất nước mênh mông, giàu đẹp. Sự mênh mông, giàu đẹp đó không tự nhiên mà có được, nó gắn với “thời gian đằng đẵng”, dài lâu, liên tục, bền bỉ mà nhân dân ta đã đổ bao mồ hôi, nước mắt và cả máu nữa, để xây dựng bờ cõi đất nước thành dải đất chữ S thân thuơng, cho “dân mình đoàn tụ” trong yêu thương tự hào, bởi “Đất Nước” là nơi chim về, rồng ở:
“Đất là nơi Chim về
.
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Những hình tượng quen thuộc trong thần thọai, truyền thuyết như “Chim, Rồng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, bọc trăm trứng” cùng tụ về trong trường liên tưởng của nhà thơ. Sự hội tụ ấy làm bật lên ý thơ ... c, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” dẫn nhà thơ đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lý. Bằng thủ pháp liệt kê độc đáo, người đọc được tiếp nhận một phát hiện mới rất thú vị: những danh lam thắng cảnh trên đất nước ta như Vịnh Hạ Long, những di tích văn hóa như Hòn Vọng Phu, Núi Bút, Non Nghiên, những di tích lịch sử như Làng Gióng, Đất Tổ trải dài trên khắp đất nước ta. Tất cả không chỉ là địa hình núi sông thuần túy mà tạo hóa đã ban tặng, mà còn được cảm nhận như một sự đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những cảnh ngộ, số phận của nhân dân và thấm đẫm vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân: thủy chung, yêu nước, hiếu học
Nếu không có những người vợ Việt Nam chung thủy đợi chồng, mòn mỏi qua bao cuộc chiến tranh và li tán thì không thể có cảm nhận Núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái. Phải chăng truyền thuyết Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt, nhổ tre làng đánh giặc Ân đã khiến ao đầm làng gióng lấp lánh vẻ đẹp của tinh thần yêu nước? Một truyền thuyết Hùng Vương nên địa hình núi sông hùng vĩ quanh đền Hùng mới được gọi là “Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương”. Niềm tự hào về mảnh đất thiêng, về xứ sở thanh bình dạt dào sông nước đã hóa thành tên gọi Cửu Long – tên một dòng sông xanh thẫm đất phương Nam. Truyền thống hiếu học của những người học trò nghèo Việt Nam bao đời đã được tạc ghi trong tên gọi “Núi Bút, Non Nghiên”. Cuộc sống bình dị và sự đóng góp thầm lặng, khai khẩn đất hoang của những người dân đã đặt tên cho non núi “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. Đến cả “con cóc, con gà quê hương” cũng “góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”, thành đất nước dung dị mà tươi đẹp.
Hình ảnh núi sông hội tụ lấp lánh qua những vầng thơ, soi bóng tâm hồn của những cuộc đời vô danh, càng thấm thía một điều bình dị: Đất nước của nhân dân, đất nước mang màu sắc dân gian, dân dã, gần gũi mà thiêng liêng
- “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
Ý thơ được nâng lên tầm khái quát, sự hóa thân bóng hình của nhân dân vào đất nước đã lý giải chính nhân dân là người tạo dựng, đã đặt tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, miền đất quê hương.
2. Về phương diện lịch sử:
- Không những có cái nhìn ở không gian địa lí, Nguyễn Khoa Điềm còn có cái nhìn về phương diện thời gian lịch sử và cũng đã khẳng định tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Chính tư tưởng này đã chi phối toàn bộ suy nghĩ của nhà thơ khi nhìn vào lịch sử “bốn nghìn năm Đất Nước”:
“Em ơi em
..
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”
Khi tái hiện dòng thời gian lịch sử của đất nước, nhà thơ không nhắc lại các triều đại hoàng kim như Đinh, Lý, Trần, Lê, cũng không nhắc đến những anh hùng đã từng được sử sách lưu danh mà “cả anh và em đều nhớ”. Trên nền quá khứ mấy ngàn năm, nhà thơ chỉ tập trung nói về những con người bình thường, vô danh. Đó là “họ”, là “lớp lớp, con gái, con trai” đã lao động, chiến đấu suốt bốn nghìn năm để dựng nước và giữ nước. Họ là Nhân dân. Tên tuổi họ chưa một lần được khắc ghi trong sử vàng dân tộc “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng cuộc đời thầm lặng của mỗi người đã “hóa núi sông ta”. Cảnh sắc núi sông gắn liền với tâm hồn dân tộc, khí phách của giống nòi.
Cái bình dị tồn tại quanh ta, hòa quyện với cái cao cả, thiêng liêng, cho thấy vẻ đẹp vĩnh hằng của đất nước và sự trường tồn của dân tộc gắn liền với muôn triệu nhân dân của mọi thế hệ, trôi theo dòng chảy thời gian lịch sử của đất nước:
“Có biết bao người con gái, con trai
.....................................................
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Đúng vậy, nhân dân chính là người “đã làm ra Đất Nước”. Tuy họ không để lại tên tuổi của mình trong sử sách nhưng chính họ đã sáng tạo nên những trang sử hào hùng, làm ra mọi giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước. Và họ luôn sẵn sàng đứng lên chiến đấu đánh đuổi cả ngoại xâm lẫn nội thù để gìn giữ một đất nước tự do, thanh bình.
- Có sự gặp gỡ giữa Nguyễn Khoa Điềm với Nguyễn Đình Thi ở quan niệm: đất nước anh hùng được làm nên bởi những con người bình thường mà phi thường, giản dị, mộc mạc mà cao cả, kì vĩ:
“Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
3. Về phương diện văn hóa:
- Khi nhìn vào phương diện văn hóa, nhà thơ cũng khẳng định vai trò của nhân dân:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
.............................................................
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
“Đất Nước của Nhân dân” không chỉ hiện diện ở bề rộng của không gian địa lí, ở chiều dài của thời gian lịch sử mà còn ở thẳm sâu của tâm hồn, tầm cao của lí trí giống nòi, bề dày của văn hóa, phong tục. Nhân dân không chỉ lao động, chiến đấu, mà con là những người sáng tạo ra văn hóa dân tộc. Hàng lọat những động từ được liệt kê “giữ, truyền, chuyền, đắp, be, trồng cây, hái trái” thể hiện sự cần cù, siêng năng, tinh thần chăm lo lao động của bao thế hệ Việt Nam. Những “hạt lúa, hòn than, tiếng nói” đều rất giản dị nhưng lại chính là sự sống của mỗi cá nhân, sự sống của cả dân tộc, là nền văn hóa, là hồn thiêng sông núi mà chính nhân dân đã sáng tạo, giữ gìn, truyền qua muôn đời, tạo thành bản sắc văn hóa Việt Nam.
- Mạch cảm xúc này dâng lên thành cao trào, để nhà thơ khẳng định một chân lí:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thọai”
“Đất Nước của Nhân dân” cũng chính là “Đất Nước của ca dao thần thọai”, bởi nói đến nhân dân là nói đến những nét đẹp bình dị mà tinh túy, những nét đẹp này vẫn lấp lánh trong ca dao, thần thọai. Hay nói cách khác “ca dao thần thọai”chính là sáng tác của nhân dân, phản ánh đời sống, tâm tư, tình cảm của nhân dân.
- Nếu Lí Thường Kiệt với “Nam Quốc Sơn Hà” đã phải dùng “đế cư, thiên thư” để trang trọng hóa đất nước, nếu Nguyễn Đình Chiểu với “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” phải nhờ đến “Một mối xa thư đồ sộ, hai vầng nhật nguyệt chói lòa” để thiêng liêng hóa đất nước, thì với hệ thống từ ngữ giản dị, mang đậm văn hóa dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã bình dị hóa đất nước, làm cho đất nước hóa thân trong tâm hồn và cụôc sống của mỗi người dân trên đất nước này:
“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
...........................................................
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Ở đọan thơ trên, nhà thơ đã vận dụng và chuyển ý sáng tạo những câu ca dao thành lời thơ đằm thắm, ca ngợi nhân dân, ca ngợi bản sắc dân tộc. Trong cả kho tàng ca dao-dân ca phong phú của dân tộc, nhà thơ đã chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện truyền thống của nhân dân. Đó là sự say đắm trong tình yêu nhân văn – “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”, đó là quý trọng lối sống tình nghĩa – “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” và một phẩm chất nữa là bền bỉ kiên cường trong chiến đấu giữ nước – “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy. Đi trả thù mà không sợ dài lâu”.
Vẫn là ý và hình ảnh của các câu ca dao quen thuộc nhưng đã trở thành những câu thơ hiện đại của Nguyễn Khoa Điềm một cách tự nhiên, nhuần nhị, gắn bó với toàn mạch cảm xúc của chương V. Đó chính là nét đặc biệt của chương thơ “Đất Nước”. Cái gì đã làm cho nước Việt Nam tồn tại mà không xóa nhòa bản sắc của mình? Cái gì đã làm cho con người Việt Nam có một truyền thống văn hiến rực rỡ? Chính là nhân dân Việt Nam đã sống rất đôn hậu, nhiệt tình, đời thường, ngay cả những khi hoàn cảnh lịch sử phá vỡ không khí đời thường đó. Đọan thơ khép lại bằng hình ảnh “dòng sông” và “câu hát” đem lại cảm nhận: Đất nước ta đẹp hiền hoà và vĩnh cửu như một dòng sông vô tận, chảy từ quá khứ đến hiện tại và vĩnh hằng tới tương lai.
Trên những dòng sông đất nước, âm vang của những sắc màu và giai điệu văn hóa Việt Nam, phẩm chất tâm hồn Việt Nam vô cùng yêu quý và tự hào! Thán từ “Ôi” mang một cảm xúc trào dâng, vỡ òa của nhà thơ khi trở về với những dòng sông của “Đất Nước”: dòng sông của không gian địa lý – dòng sông của thời gian lịch sử - dòng sông của chiều sâu văn hóa, văn học dân gian về hội tụ ở đây “Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”. “Gợi trăm màu” là một cách hình tượng hóa ngôn ngữ, nhưng đồng thời cũng là sự kì vọng về tinh thần hội nhập nhưng biết giữ gìn văn hóa đối với thế hệ mai sau. Đây chính là nội dung triết lí sâu sắc, một cấu trúc quy nạp đậm chất trữ tình, đầy sáng tạo của nhà thơ. Tóm lại, đoạn thơ kết thúc vừa hiện thực vừa lãng mạn bay bổng thể hiện niềm tin và hi vọng của tác giả về một tương lai thanh bình cho quê hương, đất nước.
* Tiểu kết: Trong phần 2 để trả lời cho câu hỏi “Ai đã làm nên Đất Nước?”, Nguyễn Khoa Điềm đã nhận thức được: làm ra đất nước là nhân dân. Nhân dân đã làm nên lịch sử, làm ra văn hóa là sáng tạo nên đất nước để càng thêm tự hào và ngân lên khúc hát ngợi ca dạt dào say mê. Suy tư và nhận thức này của nhà thơ là tư tưởng nghệ thuật đã trở thành truyền thống trong văn học Việt Nam. Từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu đã từng nói lên nhận thức về vai trò của nhân dân trong lịch sử. Đến các nhà thơ, nhà văn trong thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ đã nâng nhận thức này lên thành một tư tưởng có tầm cao mới. 
III-KẾT LUẬN:
Tóm lại, đoạn trích đã thể hiện cảm hứng độc đáo có tính phát hiện về Đất Nước trong cái nhìn tổng hợp, toàn vẹn mang đậm tư tưởng thời đại: “Đất Nước là của Nhân dân”, với lòng yêu nước tự hào, yêu nền văn hóa, niềm tin vào sức mạnh nhân dân, vào tương lai của đất nước, nhất là thắp sáng lên những khát vọng làm người như tên gọi của bản trường ca “Mặt đường khát vọng”. 
Đoạn thơ giàu chất trữ tình chính luận, vừa được viết bằng chiều sâu trí tuệ, chiều cao văn hóa, vừa được viết bằng những rung động mãnh liệt của cảm xúc nên rất dễ đi vào lòng người. Lời thơ đậm đà chất liệu văn hóa văn học dân gian, được lấy cảm hứng từ ca dao, dân ca, cổ tích, truyền thuyết nên đậm đà bản sắc dân tộc, mở ra một đất nước thơ mộng trữ tình từ xa xưa vọng về gần gũi, thân thương. Đặc biệt, chương thơ rất ít vần, nó có chất thơ là nhờ vào việc xây dựng hình ảnh, giọng điệu thơ trầm bổng thiết tha, mang âm hưởng của ca dao, dân ca.
 -----------------------------------------------------------------

File đính kèm:

  • docxchuyen_de_dat_nuoc_tac_gia_nguyen_khoa_diem.docx