Bài tập Tiếng Việt Lớp 8 - Bài: Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận 1

Bài 1: Hãy đọc đoạn văn và cho biết cảm xúc của em? Cảm xúc đó được khơi gợi từ những yếu tố nào trong đoạn văn? Hãy chỉ ra yếu tố đó và phân tích tác dụng biểu đạt của chúng? Theo em, đoạn văn đó thuộc kiểu văn bản gì, vì sao?

"Ngày còn nhỏ, tôi đã được nghe một câu chuyện rất xúc động. Chuyện kể về một cậu bé nghèo với bài văn tả mẹ - người phụ nữ đã che chở cuộc đời em. Cậu bé viết về một người mẹ với mái tóc pha sương, với đôi tay ram ráp nhăn nheo nhưng hiền dịu và ấm áp. Cậu kết luận răng: bà ngoại là người phụ nữ đã nâng đỡ em trong suốt hành trình của cuộc đời. Bài văn lạc đề, phải về nhà viết lại. Nhưng đó mới chính là một tác phẩm thành công, bởi đó chất chứa tình yêu thương của đứa cháu mồ côi dành cho bà ngoại. Liệu có thành công nào, tình cảm nào thiêng liêng hơn thế?"

Bài 2: Hãy đọc đoạn văn và cho biết thái độ của người viết đối với tác giả và nhân vật của "Tắt đèn"? Thái độ đó thể hiện ở những yếu tố biểu cảm nào? Theo em, đoạn văn thuộc kiểu văn bản gì? Vì sao?

"Ở màn đầu chương XIII, cảnh nhà vợ chồng địa chủ Nghị Quế, Ngô Tất Tố cho bưng vào đấy một cái rổ nhún nhín bốn chó con. {.} Quái thay là Ngô Tất Tố. Mới xem ai cũng thấy vợ chồng địa chủ cũng chỉ như mọi người khác thích chó, yêu chó, yêu gia súc, tưởng người lành hoặc kẻ bất lương cunggx không khác nhau gì lắm trong việc nuôi chó con. Thằng chồng le te cho chó ăn cơm, vợ hắn và hắn bù khú {.} với nhau trên câu chuyện chó con. ấy thế rồi là đùng đùng giở giọng chó má ngay với mẹ con chị Dậu đứng đấy. Đoạn này, khá lắm, bác Tố ạ! Cho thằng nhà giàu rước chó vào nhà, nó mới càng hiện chất chó đểu của giai cấp nó ra."

 

docx 12 trang cucpham 01/08/2022 2780
Bạn đang xem tài liệu "Bài tập Tiếng Việt Lớp 8 - Bài: Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài tập Tiếng Việt Lớp 8 - Bài: Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận 1

Bài tập Tiếng Việt Lớp 8 - Bài: Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận 1
YẾU TỐ BIỂU CẢM TRONG VĂN NGHỊ LUẬN 1
Bài 1: Hãy đọc đoạn văn và cho biết cảm xúc của em? Cảm xúc đó được khơi gợi từ những yếu tố nào trong đoạn văn? Hãy chỉ ra yếu tố đó và phân tích tác dụng biểu đạt của chúng? Theo em, đoạn văn đó thuộc kiểu văn bản gì, vì sao?
"Ngày còn nhỏ, tôi đã được nghe một câu chuyện rất xúc động. Chuyện kể về một cậu bé nghèo với bài văn tả mẹ - người phụ nữ đã che chở cuộc đời em. Cậu bé viết về một người mẹ với mái tóc pha sương, với đôi tay ram ráp nhăn nheo nhưng hiền dịu và ấm áp. Cậu kết luận răng: bà ngoại là người phụ nữ đã nâng đỡ em trong suốt hành trình của cuộc đời. Bài văn lạc đề, phải về nhà viết lại. Nhưng đó mới chính là một tác phẩm thành công, bởi đó chất chứa tình yêu thương của đứa cháu mồ côi dành cho bà ngoại. Liệu có thành công nào, tình cảm nào thiêng liêng hơn thế?"
Bài 2: Hãy đọc đoạn văn và cho biết thái độ của người viết đối với tác giả và nhân vật của "Tắt đèn"? Thái độ đó thể hiện ở những yếu tố biểu cảm nào? Theo em, đoạn văn thuộc kiểu văn bản gì? Vì sao?
"Ở màn đầu chương XIII, cảnh nhà vợ chồng địa chủ Nghị Quế, Ngô Tất Tố cho bưng vào đấy một cái rổ nhún nhín bốn chó con. {...} Quái thay là Ngô Tất Tố. Mới xem ai cũng thấy vợ chồng địa chủ cũng chỉ như mọi người khác thích chó, yêu chó, yêu gia súc, tưởng người lành hoặc kẻ bất lương cunggx không khác nhau gì lắm trong việc nuôi chó con. Thằng chồng le te cho chó ăn cơm, vợ hắn và hắn bù khú {...} với nhau trên câu chuyện chó con. ấy thế rồi là đùng đùng giở giọng chó má ngay với mẹ con chị Dậu đứng đấy. Đoạn này, khá lắm, bác Tố ạ! Cho thằng nhà giàu rước chó vào nhà, nó mới càng hiện chất chó đểu của giai cấp nó ra." 
Bài 3: Văn bản nghị luận trên có luận điểm là gì? Để tác động mạnh mẽ đến người đọc, tác giả đã sử dụng phương thức biểu cảm như thế nào? Hãy xác định vị trí, số lượng các yếu tố biểu cảm được đưa vào bài nghị luận? Và hãy phân tích tác dụng của những yếu tố biểu cảm đó?
HẠNH PHÚC VÀ BẤT HẠNH TRÊN ĐƯỜNG... CHÚNG TA ĐI
"Xin mời các quí vị và các bạn theo dõi chuyên mục An toàn giao thông", tiếng phát thanh viên của Đài Truyền hình Việt Nam vang lên quen thuộc. Không biết bao lần tôi đã nghe chuyên mục này trong bản tin Thời sự trên các phương tiện truyền thông, đặc biệt là chương trình Chào buổi sáng của Đài Truyền hình Việt Nam. Và dừng như lần nào cũng cập nhật một loạt thông tin chẳng mấy vui vẻ như: vi phạm luật giao thông, tai nạn nghiêm trọng, số người thiệt mạng, tổng số thiệt hại...
An toàn giao thông là hạnh phúc của mỗi người. Đó không chỉ là khẩu hiệu mang tính kêu gọi, hô hào mà chính là cuộc sống đích thực của con người. Vì sao hằng ngày chúng ta nghe đến thuộc lòng, nhìn đến quen mắt câu nói đó mà thực trạng giao thông đô thị vẫn không mấy tiến bộ? Chỉ cần mỗi ngày hai lần đi - về cùng dòng người và xe cộ qua các nút giao thông, khi không có "bóng chú áo vàng" ở đó, là chắc chắn bạn sẽ chứng kiến vô số hành vi bất chấp luật lệ: đèn vàng, người ta vượt, rồi đến đèn đỏ, người ta vẫn cố vượt; người ta tranh thủ tạt ngang, rẽ ngược, cứ ngang nhiên xe máy trên đường một chiều (để "tiết kiệm" xăng xe hay thời gian?); lại có người đang bon bon thẳng hướng, bỗng sực nhớ rẽ phải, thế là đột ngột ngoặt sang bên cạnh chẳng cần xi nhan, cũng chẳng cần biết người đi phía sau sẽ không kịp phản xạ... Vẫn còn đó nỗi đau không thể nguôi quên, mất mát không thể bù đắp của những gia đình có người thân tử nạn vì sự thiếu ý thức an toàn giao thông. Điều đáng buồn là ở chỗ, không chỉ những người đi xe máy, xe đạp thiếu ý thức an toàn mà ngay cả những lái xe chuyên nghiệp, những tài xế tắc xi, xe tải, xe buýt cũng có người thiếu ý thức nghề nghiệp, coi nhẹ nhân mạng. Có một thời báo chí, đài phát thanh, truyền hình liên tiếp đưa thông tin về những vụ tai nạn chết người do xe buýt phóng nhanh vượt ẩu "cướp đường" gây ra. Những cái chết không đáng chết! Những sự mất mát phi lí! Đến bao giờ chúng ta mới thoát khỏi nỗi đau do sự thiếu ý thức an toàn giao thông của chính chúng ta gây ra?
Mấy năm gần đây, vấn đề an toàn giao thông đã và đang trở thành "điểm nóng" như một "quốc nạn"ở nước ta. Nhiều bộ, ngành, tổ chức, cá nhân cùng kết hợp tuyên truyền, giải thích vận động trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng về an toàn giao thông. Bộ Giao thông vân tải, Bộ Công an, Bộ Văn hoá - Thông tin, Bộ Giáo dục và Đào tạo... tất cả cùng "vào cuộc" tuyên truyền cổ động cho giao thông an toàn. Chính phủ thành lập riêng một uỷ ban an toàn giao thông quốc gia. Vô số những bài báo, phóng sự, bài luận dự thi, pa nô, áp phích, những cuộc triển lãm, những hoạt động quảng cáo đa dạng diễn ra mọi lúc mọi nơi nhằm nâng cao ý thức an toàn giao thông cho người dân. Hoa hậu Việt Nam, Hoa hậu Trái Đất, các diễn viên điện ảnh, ca sĩ, nhạc sĩ... đều hăng hái tham gia tuyên truyền an toàn giao thông Việt Nam. Vì sao hoạt động cổ vũ giao thông an toàn lại rầm rộ như vậy? Câu trả lời thiết nghĩ thật đơn giản, bởi các hành vi vi phạm an toàn giao thông dường như không có chiều hướng ngừng tái diễn và hậu quả của chúng vẫn hằng ngày dóng lên những tiếng chuông cảnh báo ghê rợn. Theo thống kê, năm 2002, cả nước có 13000 nạn nhân tử vong do tai nạn giao thông. Thống kê mới nhất của Ngân hàng Thế giới - theo báo điện tử Vietnamnet ngày 18 tháng tư năm 2007 - hằng năm Việt Nam thiệt hại khoảng 850 triệu đô la do tai nạn giao thông, tổn thất kinh tế đó chiếm 0,5% tổng sản lượng quốc gia. Điều đáng suy nghĩ là thanh thiếu niên độ tuổi từ 15 đến 25 chiếm 20% dân số Việt Nam nhưng lại chiếm 40% số vụ "tai nạn giao thông đặc biệt ngiêm trọng". Đành rằng còn nhiều vấn đề không an toàn do cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ gây ra, chẳng hạn: đường xá chật hẹp; việc cải tạo thường xuyên dở dang đã tạo nên nhiều "cái bẫy" nguy hiểm: nắp cống trồi lên giữa lòng đường, "ổ gà, ổ voi" mọc giữa phố, hố ga thiếu nắp, đường phố thiếu đèn điện... biển báo giao thông bị cành cây, biển quảng cáo che lấp, vỉa hè bị lấn chiếm, hệ thống đường đi bộ qua các nút giao thông rất thiếu... Nhưng "tiên trách kỉ, hậu trách nhân", nguyên nhân đầu tiên bao giờ cũng chính vẫn ở sự thiếu ý thức chấp hành luật của mỗi chúng ta. Từ tai nạn đường sắt, đường thuỷ cho đến tai nạn đuờng bộ, theo thống kê cho thấy, nguyên nhân chính vẫn ở ý thức con người. Có những đoạn đường sắt "nguy hiểm chết người" bởi bị tháo trộm ốc vít hoặc hành khách vô tội bị ném gạch đá không thương tiếc... thật đáng buồn do mưu sinh, một số kẻ đang tâm kiếm sống bằng "nghề rải đinh" dọc quốc lộ, tỉnh lộ, thậm trí đường cao tốc . Tại Hội nghị về giao thông các nước khu vực Đông Á tổ chức năm 2005, trong báo cáo của trường Đại học Giao thông vận tải, ba nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tai nạn giao thông đường bộ - loại tai nạn giao thông chủ yếu ở nước ta đó là: chạy quá tốc độ chiếm 34%, vượt tuyến ẩu, bất cẩn chiếm 22% và lái xe say xỉn chiếm 11%. Địa điểm diễn ra tai nạn, trên quốc lộ chiếm 50%, trong thành phố chiếm 31%, ở các tỉnh chiếm 12%. Trong đó đáng chú ý là 70% số vụ tai nạn liên quan đến xe gắn máy 2 bánh, 30 % còn lại do ô tô 4 bánh gây nên, nam giới là "thủ phạm" của 81% số vụ tai nạn. Tình trạng một số thanh niên phóng nhanh, vượt ẩu, xe máy kẹp 3-4 lạng lách, đánh võng, rú ga bóp còi inh ỏi, thậm chí tổ chức đua xe trái phép với những "pha biểu diễn" nguy hiểm như: bỏ tay lái, bốc đầu xe, quẹt chân chống...vẫn tái diễn trong thành phố.
Ai đó đôi khi diễu cợt các "anh hùng núp" không đứng ngay giữa ngã tư hoặc ngay đầu các lối cấm rẽ mà đứng ở phía xa khuất rồi bất chợt xuất hiện phạt vi cảnh những người phạm luật. Riêng tôi lại rất tán đồng với "biện pháp phục kích" vất vả của các chiến sĩ cảnh sát giao thông. Đó là một trong những chiến thuật bất đắc dĩ, nhưng hiệu quả của ngành Cảnh sát để dần uốn nắn ý thức hiểu biết và chấp hành luật giao thông cho người dân. Tham gia giao thông mà không nắm được ý nghĩa các biển báo giao thông, không chịu tuân thủ những qui định an toàn tối thiểu, không tự giác khuôn mìn vào pháp luật, thử hỏi làm sao không gây tai nạn?
Trong hành trình rong ruổi của mình, nhiều lần tôi cũng "a rua" chạy xe vượt qua ngã tư khi đèn đỏ đã sáng, lại có lần liếc ngang, liếc dọc không thấy công an ở ngã tư, tôi bèn rẽ vội sang đường bên phải, dù nơi đó chưa có biển được phép rẽ lúc đèn đỏ...thậm chí có lần vì "cố" vượt tôi đã va phải một cô gái đang đi bộ sang đường, suýt ngã lăn kềnh và bị cô ta mắng té tát! Thế mới thấy vấn đề vẫn ở ý thức con người. Trước hết, mỗi người hãy tự rèn luyện và kiểm chế để tạo cho mình một thói quen tốt, tuân thủ nghiêm túc luật giao thông đường bộ, tôn trọng các biển báo giao thông cũng như tôn trọng chính mình. Chỉ cần 80% đến 90% số người tự giác thì 10% đến 20% số người thiếu ý thức còn lại sẽ nhiều lúc thấy lạc lõng, ít nhất là phải hứng chịu những cái nhìn coi thường, những lời lẽ phỉ bắng từ cộng đồng, dần dà sẽ tự "cải tạo" thói quen giao thông của mình. Mỗi người đều tự giác cao, sẽ xoá bỏ được nghịch lý: một vài người dừng xe đúng vạch đường ở ngã tư khi vừa thấy đèn vàng liền bị người khác "mắng mỏ" hoặc đâm vào sau xe; lúc khác khi chưa hết đèn đỏ, không thấy công an nhiều người đã bấm còi inh ỏi gục người đứng trước...dường như lúc nào người ta cũng gắng "tranh cướp" một cái gì đó.
An toàn giao thông không chỉ là nhân tố quan trọng mang lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc với sự bảo toàn đầy đủ vật chất cũng như tinh thần cho mỗi cá nhân mà còn là tiêu chí hàng đầu thể hiện nếp sống văn minh công nghiệp tốt dẹp. Mọi chế tài, hình phạt đều cần thiết, nhưng không thể thực sự có được hạnh phúc nếu như con người trong xã hội thiếu ý thức tự giác sống theo pháp luật và tôn trọng lẽ phải. 
Bài 4: Văn bản nghị luận trên có luận điểm là gì? Để tác động mạnh mẽ đến người đọc, tác giả đã sử dụng phương thức biểu cảm như thế nào? Hãy xác định vị trí, số lượng các yếu tố biểu cảm được đưa vào bài nghị luận? Và hãy phân tích tác dụng của những yếu tố biểu cảm đó?
MỘT QUAN NIỆM VỀ GIÁO DỤC
..."Kính gửi thầy!
...Xin hãy dạy cho cháu rằng có thể bán cơ bắp và trí tuệ của mình cho người trả giá cao nhất, nhưng không bao gi ...  như tôn trọng chính mình. Chỉ cần 80% đến 90% số người tự giác thì 10% đến 20% số người thiếu ý thức còn lại sẽ nhiều lúc thấy lạc lõng, ít nhất là phải hứng chịu những cái nhìn coi thường, những lời lẽ phỉ bắng từ cộng đồng, dần dà sẽ tự "cải tạo" thói quen giao thông của mình. Mỗi người đều tự giác cao, sẽ xoá bỏ được nghịch lý: một vài người dừng xe đúng vạch đường ở ngã tư khi vừa thấy đèn vàng liền bị người khác "mắng mỏ" hoặc đâm vào sau xe; lúc khác khi chưa hết đèn đỏ, không thấy công an nhiều người đã bấm còi inh ỏi gục người đứng trước...dường như lúc nào người ta cũng gắng "tranh cướp" một cái gì đó.
An toàn giao thông không chỉ là nhân tố quan trọng mang lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc với sự bảo toàn đầy đủ vật chất cũng như tinh thần cho mỗi cá nhân mà còn là tiêu chí hàng đầu thể hiện nếp sống văn minh công nghiệp tốt dẹp. Mọi chế tài, hình phạt đều cần thiết, nhưng không thể thực sự có được hạnh phúc nếu như con người trong xã hội thiếu ý thức tự giác sống theo pháp luật và tôn trọng lẽ phải. 
Yêu cầu:
Văn bản nghị luận trên có luận điểm là gì? Để tác động mạnh mẽ đến người đọc, tác giả đã sử dụng phương thức biểu cảm như thế nào? Hãy xác định vị trí, số lượng các yếu tố biểu cảm được đưa vào bài nghị luận? Và hãy phân tích tác dụng của những yếu tố biểu cảm đó?
Hướng dẫn làm bài tập:
Xác định luận điểm: Bài viết bàn luận về vấn đề: An toàn giao thông có vai trò quyết định hạnh phúc của con người.
Xác định các yếu tố biểu cảm: 
Yếu tố biểu cảm thể hiện ở tình cảm, cảm xúc chân thành của người viết trước hiện thực giao thông không an toàn ở nước ta. Cụ thể là: nỗi buồn, đau trước những hành vi vi phạm an toàn giao thông và trước những thông tin về tai nạn giao thông; sự trăn trở, day dứt trước những nguyên nhân gây nên tình trạng giao thông không an toàn và trước hiện thực vi phạm an toàn giao thông không ngừng tái diễn; sự đồng tình ủng hộ đối với những biện pháp nhằm giảm thiểu sự vi phạm an toàn giao thông và tai nạn giao thông; lời kêu gọi tôn trọng luật giao thông, tôn trọng hạnh phúc của chính mình và tôn trọng nếp sống văn minh công nghiệp thiết tha.
Yếu tố biểu cảm thể hiện ở những từ ngữ, câu văn bộc lộ trực tiếp tình cảm của người viết như:
 Sự bất bình trước những hành vi vi phạm an toàn giao thông: "đèn vàng, người ta vượt, rồi đến đèn đỏ, người ta vẫn cố vượt, người ta tranh thủ tạt ngang, rẽ ngược, cứ ngang nhiên xe máy trên đường một chiều để "tiết kiệm thời gian hay xăng xe"?; Điều đáng buồn là ở chỗ, không chỉ những người đi xe máy, xe đạp thiếu ý thức an toàn giao thông mà ngay cả những lái xe chuyên nghiệp, những tài xế tắc xi, xe tải, xe buýt cũng có nguời thiếu ý thức nghề nghiệp, coi nhẹ nhân mạng..."
Sự đau xót trước những tổn thất do tai nạn giao thông: "Vẫn còn đó nỗi đau không thể nguôi quên, mất mát không thể bù đắp của những gia đình có người thân tử nạn vì sự thiếu ý thức an toàn giao thông. Những cái chết không đáng chết! Những mất mát phi lí! Đến bao giờ chúng ta mới thoát khỏi nỗi đau do sự thiếu ý thức an toàn giao thông của chính chúng ta gây nên?"
Sự đồng tình với "biện pháp phục kích" bất đắc dĩ của các "anh hùng núp", nhằm "uốn nắn ý thức hiểu biết và chấp hành luật giao thông của người dân..."
Yếu tố biểu cảm được đưa vào văn bản nghị luận nêu trên, thuộc về nhiều vị trí khác nhau, thể hiện xuyên suốt toàn bài và tập trung nhiều ở phần giải thích, phần bình luận.
Tác dụng của biểu cảm trong bài nghị luận "Hạnh phúc và bất hạnh trên đường... chúng ta đi": là làm cho lí lẽ, lập luận, ý kiến của tác giả không khô khan mà ngập tràn cảm xúc buồn đau, trăn trở, hi vọng tha thiết. Quan trọng hơn là những cảm xúc ấy truyền mạnh đến người đọc nhờ sự chân thành của người viết. Vì thế có thể khẳng định rằng quá trình trình bày lí lẽ, lập luận và bày tỏ ý kiến, tác giả bài nghị luận đã sử dụng kết hợp phương thức biểu cảm rất thành công, làm cho lí lẽ đưa ra không chỉ sáng suốt mà còn thấm đượm tình cảm, cảm xúc. Đặc biệt, nhờ có những yếu tố biểu cảm, quá trình bàn luận (lập luận) của tác giả không chỉ mạch lạc, lôgic mà còn đầy sức lôi cuốn, truyền cảm, do đó tác động mạnh đến người đọc cả ở phương diện lí trí và phương diện tình cảm, nhờ đó mà ý kiến, quan điểm của tác giả được người đọc dễ dàng đồng cảm, đồng tình, nhất trí nghe theo. 
Bài 2:
Ngữ liệu: MỘT QUAN NIỆM VỀ GIÁO DỤC
..."Kính gửi thầy!
...Xin hãy dạy cho cháu rằng có thể bán cơ bắp và trí tuệ của mình cho người trả giá cao nhất, nhưng không bao giờ cho phép ai ra giá mua trái tim và tâm hồn mình"
Đây chính là câu nói thể hiện quan niệm về giáo dục của người lãnh đạo tối cao Hoa Kì, nó cho thấy một cách nhìn, một yêu cầu không phải chỉ của Tổng thống đối với ngành giáo dục, mà còn là sự mong đợi của một người cha, một bậc phụ huynh đối với người thầy giáo dục con mình.
Như chúng ta đã biết, giáo dục không chỉ có trách nhiệm đem lại kiến thức, hiểu biết trong các lĩnh vực khoa học, đời sống cho học sinh mà quan trọng hơn, giáo dục còn dạy cho một đữa trẻ cách làm người, cách đối nhân xử thế.
Trong bức thư gửi người thầy của con mình, tổng thống Lincoln cũng đã thể hiện quan niệm đó - quan niệm về cái cốt lõi trong giáo dục một đứa trẻ, không những phải dạy cho đứa trẻ ấy trí tuệ, sự khôn ngoan mà hơn hết phải dạy chúng luôn giữ bản lĩnh, lòng tự trọng, tâm hồn và phẩm cách của mình. Chỉ với một câu nói ngắn gọn ấy, ông đã khái quát được 2 khía cạnh lớn trong giáo dục một con người, đó là giáo dục tài năng và nhân cách. Bằng lời lẽ trang trọng và chuẩn xác của một vị tổng thống nhưng cũng là một giọng điệu tha thiết của một người cha mong mỏi đứa con của mình được hưởng sự giáo dục tốt nhất của nhà trường, câu nói ấy đã trở thành kim chỉ nam cho ngành giáo dục Hoa kì nói riêng và thế giới nói chung, đặt làm trọng tâm trong công cuộc "trồng người"...
Tổng thống Lincoln đã viết: "Xin hãy dạy cho cháu rằng có thể bán cơ bắp và trí tuệ cho người trả giá cao nhất", điều đó đồng nghĩa với giáo dục cho học sinh sự thông minh, khôn ngoan trong cuộc sống. Bởi cơ bắp và trí tuệ là thứ của cải quan trọng để mỗi người có thể dùng để nuôi sống bản thân. Đây là những thứ rất quí giá, mang tầm ảnh hưởng lớn đối với cả đời người, bởi mỗi người có giàu sang hay không đều phụ thuộc vào cơ bắp và trí tuệ. Vậy nên nhà trường phải dạy cho một đứa trẻ có cách nhìn nhận sáng suốt và cái đầu khôn ngoan để nhận thức được giá trị thực sự của mình và tìm người trả giá tương xứng với giá trị ấy.
Ngài tổng thống cũng nhấn mạnh một khía cạnh khác không kém phần quan trong: "không bao giờ cho phép ai ra giá mua trái tim và tâm hồn mình", điều đó có nghĩa con người có thể bán sức lực và trí tuệ của mình để lấy những giá trị cao quí, nhưng anh ta không được phép bán nhân cách và lương tâm.
Như chúng ta đã biết, đồng tiền là một thế lực vạn năng, nó đem lại cho con người nhiều thứ, từ vật chất đến tinh thần, nhưng nó cũng gieo bao tai hoạ cho biết bao gia đình...Vì tiền mà người ta phạm tội, từ những tội ác vặt vãnh đến những tội ác nghiêm trọng. Vì tiền mà những cán bộ lẽ ra phải giúp dân "xoá đói giảm nghèo" lại trở thành "cướp ngày" với những vụ tham những đến hàng tỉ USD...Chính vì những điều đó mà trách nhiệm của giáo dục là phải dạy cho học sinh ngay từ tuổi thơ ấu biết được rằng cái giá trị nhất của con người là lòng tự trọng, là phẩm cách trong sáng thanh cao. Có lẽ không chỉ tổng thống Lincoln mà tất cả các bậc cha mẹ trên thế giới này không bao giờ muốn con mình trở thành kẻ mất hết lương tâm... Đau xót biết chừng nào khi người mẹ già ốm yếu chạy theo chiếc xe tù chở đứa con phạm tội trong vụ trọng án Năm Cam ra pháp trường! Nước mắt mẹ chảy dài trên gò má nhăn nheo giữa trưa nắng cháy! Đứa con ấy bấy giờ mới hối hận kêu lên thành tiếng nấc nghẹn ngào! Trên thế gian này có bà mẹ nào dạy con đi ăn cướp đâu, nhưng đồng tiền đầy sức cám dỗ nó đã cướp đi những đứa con trong một phút yếu lòng! Sứ cám dỗ của đồng tiền còn dẫn đến những vụ việc đau xót như đội tuyển U23 Việt Nam vừa qua... Để có thể giúp con người chiến thắng được sự cám dỗ nguy hiểm của đồng tiền ấy, chỉ một cách duy nhất thôi là dạy cho trẻ nhận biết được giá trị của lương tâm, giá trị của tâm hồn!
Câu nói của vị tổng thống Hoa Kì là bài học cho toàn ngành giáo dục Viết Nam hiện nay - khi mà nhu cầu hưởng thụ đang đe doạ tâm hồn mỗi người...”
Yêu cầu:
Văn bản nghị luận trên có luận điểm là gì? Để tác động mạnh mẽ đến người đọc, tác giả đã sử dụng phương thức biểu cảm như thế nào? Hãy xác định vị trí, số lượng các yếu tố biểu cảm được đưa vào bài nghị luận? Và hãy phân tích tác dụng của những yếu tố biểu cảm đó?
Hướng dẫn làm bài tập:
- Luận điểm: “Xin hãy dạy cho cháu rằng có thể bán cơ bắp và trí tuệ của mình cho người trả giá cao nhất, nhưng không bao giờ cho phép ai ra giá mua trái tim và tâm hồn mình.”
- Yếu tố biểu cảm: 
+ Đau xót biết chừng nào khi người mẹ già ốm yếu chạy theo chiếc xe tù chở đứa con phạm tội trong vụ trọng án Năm Cam ra pháp trường! => Biểu cảm trực tiếp về nỗi đau của người mẹ có con tù tội
+Nước mắt mẹ chảy dài trên gò má nhăn nheo giữa trưa nắng cháy! Đứa con ấy bấy giờ mới hối hận kêu lên thành tiếng nấc nghẹn ngào! => Biểu cảm gián tiếp qua miêu tả nỗi đau của người mẹ và nỗi niềm ân hận của đứa con tù tội 
+ Trên thế gian này có bà mẹ nào dạy con đi ăn cướp đâu, nhưng đồng tiền đầy sức cám dỗ nó đã cướp đi những đứa con trong một phút yếu lòng! Biểu cảm gián tiếp qua nhận xét (đánh giá) về nguyên nhân dẫn đến cảnh tù tội của những đứa con.
+ Để có thể giúp con người chiến thắng được sự cám dỗ nguy hiểm của đồng tiền ấy, chỉ một cách duy nhất thôi là dạy cho trẻ nhận biết được giá trị của lương tâm, giá trị của tâm hồn! => Biểu cảm gián tiếp qua nhận định (kết luận) về giá trị của lương tâm và giá trị của tâm hồn
Tóm lại, Qua tìm hiểu hai ví dụ về đoạn văn và văn bản nghị luận xã hội, chúng tôi thấy việc sử dụng các yếu tố biểu cảm là rất cần thiết, nó góp phần quyết định sự thành công của văn bản nghị luận xã hội. Tuy nhiên không được lạm dụng và không được làm vỡ mạch nghị luận khi sử dụng.

File đính kèm:

  • docxbai_tap_tieng_viet_lop_8_bai_yeu_to_bieu_cam_trong_van_nghi.docx